Tìm kiếm tin tức
Liên kết website
Sở, Ban, Ngành
UBND Huyện, Thị xã, Thành phố
Chuyển đổi số là gì
Ngày cập nhật 18/07/2024

Chuyển đổi số là câu chuyện đang diễn ra ở hầu hết các quốc gia với những mức độ và cách thức khác nhau. Ở nước ta, Chương trình chuyển đổi số quốc gia đã nhanh chóng lan tỏa trên cả nước. “Chuyển đổi số” đã trở thành cụm từ được nói đến thường xuyên trên các phương tiện truyền thông và cuộc sống.

 

Cuộc sống của người dân cũng đang dần gắn nhiều hơn với môi trường thực - số. Nhiều doanh nghiệp đang tích cực tìm hiểu và thực hiện chuyển đổi số cho doanh nghiệp của mình trước câu hỏi “chuyển đổi số hay là chết?”. Chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên hầu hết tất cả các ngành, lĩnh vực, chuyển đổi số toàn dân và toàn diện gắn với đặc điểm, con đường của Việt Nam. Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số đã được thành lập và hoạt động để giúp Chính phủ điều hành công cuộc chuyển đổi số của đất nước. Bộ Thông tin và Truyền thông là cơ quan dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia. Chúng ta nhắc rất nhiều đến “chuyển đổi số”, vậy thực chất “chuyển đổi số” là gì?

Chuyển đổi số là gì?

Với sự “nhập vào” của môi trường số, các thực thể của môi trường truyền thống không chỉ kết nối với nhau tốt hơn mà trên thực tế còn chịu sự biến đổi sâu sắc để thích nghi với sự “nhập vào” của không gian mới này. Mỗi thực thể trong môi trường truyền thống như ngôi nhà, con đường thành phố, làng mạc, doanh nghiệp hay các tổ chức xã hội khác, thậm chí cả từng quốc gia đều đang thay đổi chính mình để thích nghi với môi trường sống mới. Sự “thay đổi chính mình” này là bản chất của chuyển đổi số.

Khi môi trường truyền thống khách quan thay đổi thành môi trường thực-số, chuyển đổi số có thể được hiểu như sau:

“Chuyển đổi số là quá trình tự thay đổi cách sống và cách làm việc trên môi trường thực - số".

Cách hiểu trên đưa ra hai ý cơ bản của chuyển đổi số. Một là, chuyển đổi số là một quá trình tự thay đổi về cách sống (của cá nhân và cộng đồng) và cách làm việc (của cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp). Hai là thay đổi để thích nghi và khai thác các cơ hội của môi trường thực-số.

Con người ta sống cả nghìn năm nay, môi trường sống của chúng ta luôn luôn thay đổi. Khi môi trường sống thay đổi chúng ta phải thay đổi để thích ứng với lại cái mới. Chuyển đổi số chẳng qua là chúng ta thay đổi để thích ứng với những cái thay đổi bởi công nghệ. Công nghệ hiện nay thay đổi rất nhanh.

Chúng ta biết rằng, cứ 18 tháng thì năng lực tính toán lại tăng gấp đôi, băng thông lại tăng gấp đôi, lưu trữ thì tăng gấp đôi và rẻ đi một nửa. Tức là cứ 18 tháng thì lại có một sự thay đổi. Thế thì vì sự thay đổi đấy nó tạo ra một môi trường sống mới của con người là môi trường số. Chuyển đổi số nó chỉ đơn giản là thay vì trước đây chúng ta sống hoàn toàn trong môi trường thực hoặc chúng ta sống một phần trên môi trường mạng Internet, thì bây giờ chúng ta sống cùng lúc ở cả hai môi trường, cả môi trường thực và môi trường số. Nhiều khi môi trường số có tác động to lớn đến môi trường thực mà những tác động đấy nó xuất phát từ môi trường số đầu tiên.

Chuyển đổi số chỉ đơn giản là chúng ta chuyển đổi hoạt động của chúng ta từ môi trường thực sang môi trường số. Trong trào lưu này, con người có xu hướng ở trên môi trường số ngày càng nhiều hơn. Nếu như trước đây vào năm 2011 thì một ngày trung bình một người trên thế giới dành khoảng một tiếng để sống trên môi trường số, thì sau 10 năm, vào năm 2021 trung bình một ngày con người dành khoảng 5 tiếng để sống trên môi trường số.

Hay ví dụ như là cán bộ, công chức của chúng ta trước đây dùng Internet thì không nhiều, nhưng mà bây giờ thì khi đến văn phòng ngay lập tức là chúng ta ngồi vào hệ thống làm việc ở trên mạng rồi. Vậy thì tỷ lệ hoạt động của con người trên môi trường số ngày càng nhiều hơn và khi hoạt động và lên môi trường số ngày càng nhiều hơn thì con người có xu hướng thay đổi hành vi khi thay đổi môi trường. Các anh chị sẽ thấy là khi mà chúng ta thay đổi môi trường sống là ngay lập tức là chúng ta thay đổi hành vi. Vậy ở trên môi trường số thì chúng ta thay đổi hành vi như thế nào? Trước đây chúng ta chỉ có thể ngồi ở văn phòng thì chúng ta mới xử lý được văn bản, nhưng bây giờ tôi tin rằng tất cả chúng ta hoàn toàn có thể xử lý văn bản từ xa. Tiếp nữa, trước đây khi chưa có camera giám sát thông minh chẳng hạn, thì ở những chỗ vắng thì con người sẽ có xu hướng cũng hơi tùy tiện một chút là xả rác bừa bãi. Thế nhưng mà khi chúng ta nhìn thấy camera thông minh thì chúng ta tự ý thức cao hơn và sẽ không xả rác nữa.

Chuyển đổi số đã thay đổi tất cả hành vi của chúng ta. Trước đây chúng ta phải ra chợ mới mua được mớ rau, đồ ăn thức uống, người ở Hà Nội muốn ăn mực nhảy Vũng Áng ở Hà Tĩnh hay gà đồi ở Hà Giang thì rất là khó. Thế nhưng bây giờ rất nhiều chị em làm văn phòng ở Hà Nội đã có thể dễ dàng đặt qua sàn thương mại điện tử một sản phẩm đặc sản của địa phương nào đó và buổi chiều khi đi làm về thì nó đã được mang đến cửa nhà rồi. Chuyện ấy là chuyện hiển nhiên bây giờ, ở các nước phát triển nhất về thương mại điện tử như là Trung Quốc, dưới tác động của chuyển đổi số trong lĩnh vực logistic thì tốc độ giao hàng là rất nhanh, họ có thể giao hàng trong nước chỉ 1 ngày, giao hàng quốc tế chỉ 2 – 3 ngày đến khắp nơi trên thế giới và phí vận chuyển thì rất rẻ, còn rẻ hơn phí giao hàng trong nội thành của chúng ta.

Nói đơn giản về chuyển đổi số thì có rất nhiều cách nói, nhưng mà cách nói đơn giản nhất là trước đây chúng ta hoạt động trong môi trường thực nhiều hơn thì bây giờ chúng ta hoạt động trong môi trường số nhiều hơn. Và những các quốc gia dẫn đầu về chuyển đổi số thì thậm chí tỉ lệ hoạt động của con người trên môi trường số là 50/50.

Để làm rõ nét hơn về điều này thì chúng ta sẽ tiếp tục đến với thêm một số ví dụ nữa về sự thay đổi khi có chuyển đổi số.

Trước đây các hãng taxi truyền thống thì họ kinh doanh và họ bán dịch vụ vận tải, con người ra đường thấy taxi thì vẫy đấy là cái giai đoạn đầu. Thế sau đó đến cái giai đoạn sau mà các hãng taxi vẫn bán dịch vụ vận tải nhưng con người có thể gọi điện qua tổng đài, có thể đặt taxi qua ứng dụng. Thế còn chuyển đổi số, Grab không còn bán dịch vụ vận tải nữa, mà ông ý bán dịch vụ kết nối giữa người có khả năng cung cấp dịch vụ và người có nhu cầu. Nó thay đổi như thế nào, nó thay đổi là Grab không có bất cứ một chiếc taxi nào cả, toàn là xe của người dân thôi, Grab khác tất cả các hãng taxi truyền thông là không sở hữu một cái taxi vật lý nào cả, nó cũng khác tất cả các hãng taxi truyền thông là không sử dụng một tài xế nào cả. Thế nhưng giá trị của Grab lại hơn tất cả giá trị của các hãng taxi truyền thông cộng lại. Đấy là chuyển đổi số, là làm thay đổi hẳn mô hình kinh doanh, thay vì bán dịch vụ vận tải thì người ta bán dịch vụ kết nối, người ta không có chiếc xe nào cả, người ta không sở hữu hay quản lý có một người lái taxi nào cả thế nhưng giá trị của nó thì lớn hơn nhiều so với các hãng truyền thống.

Hay là một cái câu chuyện về một công ty gọi là bách khoa toàn thư của Vương quốc Anh thì người ta sống mấy trăm năm nay nhờ mô hình bán nội dung chất lượng cao, giáo dục. Trước đây thì họ bán những cái cuốn sách bằng bản cứng, sau đó ứng dụng công nghệ thông tin thì họ bán đĩa CD, khi chuyển đổi số thì họ bán dịch vụ truy cập vào kho thông tin của họ. Vậy thì ở đây sự thay đổi là như thế nào? Nó thay đổi ở chỗ là bộ sách cứng hay là cái CD là họ bán trên diện rộng, đại trà, tức là ai mua cũng giống nhau. Có khi mình chỉ cần một mẩu thông tin ở trong đấy thôi nhưng mình phải mua nguyên cả cái đĩa và như thế thì rất đắt. Còn mô hình mới mà họ cung cấp là bán dịch vụ cá thể hóa theo nhu cầu. Ví dụ như là anh chị có con học cấp ba, thì anh chị cần mua những nội dung liên quan đến khoa học tự nhiên, vật lý cấp ba cho con mình thôi chứ không cần phải mua cả một cuốn to hay là chị em muốn mua một vài công thức nấu nướng thì tùy biến thôi và các anh chị chỉ cần phải trả tiền cho cái nội dung mà mình mua, nó thay đổi hoàn toàn về cách mình sử dụng dịch vụ.

Tóm lại, chuyển đổi số là chuyển đổi từ một môi trường cũ sang một môi trường mới và khi điều đó xảy ra nó sẽ tạo ra những sự khác biệt.

Sự khác biệt trong chuyển đổi số là gì?

Đó chính là sự khác biệt giữa người nhanh và người chậm, tức là ai chuyển đổi lên môi trường số nhanh thì người ấy có nhiều lợi thế. Và chuyển đổi chậm thì mất lợi thế đi. Vì vậy thì chúng ta vẫn nói là giai đoạn cách mạng công nghệ 4.0 hiện nay không phải là cá lớn nuốt cá bé, chúng ta thấy rất nhiều cá lớn bị chết vì không chuyển đổi kịp.

Ví dụ như Nokia chẳng hạn, hồi xưa chúng ta nếu có dùng điện thoại di động thì chắc là gắn bó với Nokia. Nhưng mà sau này, hình ảnh của Nokia dần biến mất và thay thế bởi iPhone của Apple. Thế thì cái câu chuyện về chuyển đổi số không phải là câu chuyện cá to nuốt cá bé mà là cá nhanh nuốt cá chậm vì là nó lấy môi trường mới, môi trường mới ai nhanh chân hơn người đó có cơ hội hơn. Ở trên thế giới có một số thành phố đã tận dụng được cơ hội này để thay đổi cả lịch sử phát triển.

Tuy nhiên có lẽ chúng ta sẽ không lấy ví dụ từ những câu chuyện của nước ngoài nữa bởi nếu như trước đây khi Việt Nam chưa hoàn thiện đầy đủ kho dữ liệu về chuyển đổi số, chúng ta phải học tập, mượn hình ảnh và câu chuyện từ nước ngoài thì có thể nói đến nay Việt Nam đã có thể tự hào kể về các hoạt động chuyển đổi số đã triển khai thành công bằng những giải pháp, nền tảng số mang thương hiệu Việt Nam.

Trong năm 2022, Bộ Thông tin và Truyền thông đã xuất bản cuốn sách 21 câu chuyện chuyển đổi số năm 2021 và hiện tại chúng tôi cũng đang xây dựng để chuẩn bị xuất bản cuốn sách mới cập nhật thêm các câu chuyện chuyển đổi số Việt Nam năm 2022. Như vậy có thể nói rằng chúng ta có rất nhiều câu chuyện để nói về chuyển đổi số Việt Nam.

Ba cấp độ của chuyển đổi số

Là một quá trình lâu dài và phức tạp, chuyển đổi số thường được nhìn theo ba cấp độ: (1) Số hóa; (2) Mô hình hoạt động số; (3) Chuyển đổi số. Ba cấp độ này được giải thích ít nhiều khác nhau trên báo chí, nhưng ý chính có thể được hiểu như sau.

Số hóa (digitization) như đã nêu ở trên là việc biểu diễn các thực thể (đối tượng, vạn vật) có trong tự nhiên, từ dạng tự nhiên, dạng vật lý (physical) sang dạng số, tức tạo ra phiên bản số của các thực thể và do đó tạo một cặp đôi thực - số (digital twin). Việc số hóa đã bắt đầu từ khi có máy tính, vì mọi thứ muốn đưa vào máy tính đều phải ở dạng số. Số hóa tạo ra dữ liệu và từ đó kết nối các thực thể là bước đầu của chuyển đổi số. Số hóa thay đổi rất nhanh gần đây do những tiến bộ của công nghệ số hóa, của Internet vạn vật…

Khai thác cơ hội số (digitalization) còn được gọi là “số hóa quy trình”, “số hóa tổ chức” hay “số hóa doanh nghiệp” – là cấp độ dùng các công nghệ số và dữ liệu để xác định cách thức và quy trình hoạt động mới của tổ chức hay doanh nghiệp. Đây chính là việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động của các tổ chức và doanh nghiệp khi các cơ hội số ngày càng nhiều. Bản chất của cấp độ này là đổi mới sáng tạo với các công nghệ số (tiêu biểu là Al, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, chuỗi khối và Internet vạn vật) nhằm khai thác hai đặc điểm cơ bản của môi trường thực-số dữ liệu và kết nối... để xây dựng mô hình hoạt động hay mô hình kinh doanh trên môi trường thực-số.

Chuyển đổi (transformation) là thay đổi ở cấp độ hệ thống của tổ chức theo mô hình hoạt động hay kinh doanh mới, với sự thay đổi của con người, thể chế và ứng dụng các công nghệ số trong tổ chức. Ở cấp độ này, hoạt động của tổ chức dựa trên công nghệ số sẽ được tái cấu trúc, thay đổi một cách tổng thể và toàn diện. Các mô hình và quá trình kinh doanh số sẽ tái cấu trúc nền kinh tế. Xã hội sẽ thay đổi khi mọi người tích hợp công nghệ số vào cuộc sống của mình. Chuyển đổi số là quá trình chuyển đổi ở cấp hộ hệ thống nhằm thay đổi hành vi trên quy mô lớn. Bản chất của chuyển đổi số là sáng tạo (creation).

Có thể tóm tắt ba cấp độ của chuyển đổi số như sau:

  • Số hóa xảy ra các thực thể được tạo ra biểu diễn số.
  • Khai thác cơ hội số xảy ra khi mô hình kinh doanh và quy trình hoạt động được thay đổi để thích ứng với các cơ hội có được từ số hóa.
  • Chuyển đổi xảy ra khi chính quyền, doanh nghiệp, xã hội, nền kinh tế tái cấu trúc có tính hệ thống với việc sử dụng hiệu quả các công nghệ số.

Xây dựng kế hoạch số hóa

Các thực thể (đối tượng, vạn vật) trong môi trường thực con người đang sống thường ở dạng tự nhiên (dòng sông, cánh đồng, doanh nghiệp….) hay dạng tín hiệu liên tục (dòng điện, tiếng nói con người….). Tuy nhiên, ta không thể tính toán và làm việc bằng máy tính với các thực thể khi chúng ở các dạng tự nhiên hoặc liên tục, mà chỉ có thể làm vậy khi các thực thể được biểu diễn bằng các con số trong máy tính. Số hóa là việc tạo ra các con số để mô tả và biểu diễn các thực thể, tức là tạo ra dữ liệu hay phiên bản số của các thực thể. Số hóa tạo ra các cơ hội số để cho sự phát triển.

Ví dụ quen thuộc là số hóa văn bản. Văn bản trên giấy được đưa vào máy quét và phần mềm OCR sẽ tạo ra tệp văn bản số trên máy tính. Các tệp văn bản số có thể được kết nối với nhau, qua nhãn gán cho các thành phần trong văn bản.

Tuy nhiên, các thực thể cần số hóa là rất đa dạng và phức tạp hơn rất nhiều so với việc số hóa văn bản. Sông núi, phố phường, nhà cửa trên trái đất của chúng ta cũng được số hóa. Trái đất được số hóa với bản đồ số khổng lồ Google maps. Mỗi người cũng tham gia vào quá trình số hóa chính mình, thường là vô thức, với nhiều phiên bản số như các trao đổi trên Facebook, hồ sơ sức khỏe điện tử, các giao dịch điện tử mỗi ngày hay các dữ liệu về đi lại, về nhịp tim do chiếc đồng hồ thông minh đo. Việc số hóa quy trình sản xuất của một doanh nghiệp phức tạp hơn nhiều so với số hóa văn bản của doanh nghiệp.

Việc số hóa của mỗi tổ chức trong quá trình chuyển đổi số là yêu cầu đầu tiên không thể tránh khỏi. Nhưng cần số hóa như thế nào, lựa chọn gì và vào lúc nào để số hóa, đâu là những yếu tố dẫn dắt việc xây dựng kế hoạch số hóa của tổ chức?

Không có con đường chung cho mọi tổ chức khi xây dựng kế hoạch số hóa, dưới đây là một số gợi ý cho việc xây dựng kế hoạch số hóa đối với mọi tổ chức:

  • Nguyên lý cơ bản là số hóa nhằm tạo ra dữ liệu, tạo ra cơ hội số cho hoạt động của tổ chức trong môi trường số, nhằm tạo ra sản phẩm mới, giá trị mới.
  • Cần có sự kết nối cấp độ số hóa với cấp độ khai thác cơ hội số khi lập kế hoạch số hóa. Cần hiểu rõ mô hình và quy trình hoạt động sử dụng chuẩn dữ liệu gì và thế nào trong cách làm việc mới khi lập kế hoạch số hóa.
  • Mô hình và quy trình hoạt động có thể thay đổi và điều chỉnh trong thực tế và do đó kế hoạch số hóa cũng cần điều chỉnh theo.
  • Số hóa làm môi trường số trở nên phong phú hơn, làm cho tổ chức giàu tài sản hơn, nên luôn cần nghĩ đến việc tổ chức, lưu trữ và bảo vệ dữ liệu số hóa. Đó là việc chứa dữ liệu theo cơ sở dữ liệu kiểu nào, có dùng blockchain để bảo vệ không….
  • Những câu hỏi cụ thể cần đặt ra là:

+ Những quy trình nghiệp vụ hay thủ tục hành chính nào đã và sẽ được tin học hóa và sẽ chuyển sang môi trường số?

+ Thông tin về mức độ số hóa đã làm, cần làm nhưng chưa được làm?

+ Dữ liệu số hóa sẽ được dùng như thế nào?

+ Cần phải số hóa gì thêm? Vào lúc nào?

+ Khó khăn của số hóa là gì? Số hóa tự động được ở mức nào? Tiêu chuẩn chất lượng của số hóa thế nào? Bảo mật của dữ liệu số hóa ra sao?

Môi trường số có ý nghĩa thế nào với chúng ta?

Ý nghĩa vô giá ở đây là hoạt động của các thực thể có thể được tính toán và điều khiển qua các phiên bản số (dữ liệu) được kết nối với chúng trên môi trường số.

Đây là cơ sở công nghệ để chúng ta thay đổi cách sống, cách làm việc, thay đổi phương thức sản xuất, thông minh hóa cuộc sống, công việc và sản xuất (tiêu biểu là AI, là công nghệ phân tích và khai thác dữ liệu cho các mục tiêu cụ thể).

Các thực thể trước đây chỉ có thể tương tác với nhau trong môi trường vật lý, do đó số lượng tương tác ít hơn và bị giới hạn về khoảng cách địa lý. Trong môi trường số, lượng tương tác có thể mở ra rất nhiều.

Gần 20 năm trở về trước, con người chỉ tương tác với người khác khi gặp nhau, hoặc nói chuyện qua điện thoại, thư từ. Trong môi trường số, ngày nay, mỗi người có thể tương tác với hàng nghìn người khác hoặc nhiều hơn thông qua các mạng xã hội.

Rất nhiều công nghệ đã được phát triển trong vài thập kỷ qua, nhưng gần đây khi số hóa và kết nối thực - số được đẩy mạnh, tạo nên các nguồn dữ liệu lớn, các công nghệ số mới sang giai đoạn phát triển mạnh mẽ, tạo nên những bước ngoặt lớn trong kỷ nguyên số.

Các công nghệ của chuyển đổi số

Trí tuệ nhân tạo

Con người nỗ lực làm cho máy móc có những năng lực trí tuệ của con người và gọi đó là trí tuệ nhân tạo. Xét theo nghĩa này, thì trí tuệ nhân tạo còn phải tiếp tục phát triển lâu dài nữa để tới gần hơn điều đó. Nhưng xét theo nghĩa hẹp hơn, là trí tuệ nhân tạo nhằm “tăng cường năng lực trí tuệ của con người”, thì đã có những bước tiến lớn trong vòng 2 thập kỷ vừa qua.

Thời khắc Sputnik về trí tuệ nhân tạo của Trung Quốc

Năm 1957, Liên Xô lúc đó phóng thành công vệ tinh Sputnik 1 vào quỹ đạo trái đất, khiến nước Mỹ bất ngờ. Thuật ngữ “thời khắc Sputnik” từ đó được sử dụng để mô tả thời điểm khi một quốc gia hoặc xã hội nhận ra rằng họ đang bị đe dọa hoặc thách thức bởi quốc gia khác và họ phải nỗ lực gấp đôi để bắt kịp và vượt qua đối thủ. Có một sự kiện mà thế giới không để ý, xuất phát từ truyền thống văn hóa của Trung Quốc và ra đời từ hơn 2.500 trước; cờ vây được coi là một trong tứ nghệ. Nguyên tắc chơi cơ bản có thể tóm gọn trong vỏn vẹn 9 câu, nhưng số lượng các thế trận khả dĩ trên bàn cờ còn nhiều hơn số lượng các nguyên tử trong vũ trụ quan sát được, nhiều hơn cờ vua và cờ tướng gấp nhiều lần. Chính vì vậy, việc trí tuệ nhân tạo có thể đánh thắng con người khi chơi cờ vây được coi là thử thách lớn nhất mà cộng đồng trí tuệ nhân tạo thế giới chưa vượt qua được trong vài chục năm qua. Vào tháng 3/2016, cỗ máy trí tuệ nhân tạo AlphaGo của Google, với những đột phá mới trong kỹ thuật học sâu, dựa trên dữ liệu lớn, có khả năng tiến hóa qua các lần học, đã đánh bại kỳ thủ đương kim vô địch cờ vây giỏi nhất đại diện cho loài người. Trong chuỗi 5 trận đấu với kỳ thủ huyền thoại đương kim vô địch thế giới, AlphaGo đã thắng 4 ván, hòa 1 ván. Sự kiện trên thu hút được sự theo dõi của hơn 280 triệu khán giả Trung Quốc và đã châm một ngọn lửa trí tuệ nhân tạo vào cộng đồng công nghệ Trung Quốc và ngọn lửa ấy vẫn hừng hực cháy suốt từ đó tới nay, đưa Trung Quốc trở thành một trong những quốc gia đi đầu về trí tuệ nhân tạo.

Máy học là một nhánh của trí tuệ nhân tạo, có mục tiêu làm cho máy móc có khả năng học tập như con người. Biết học là sẽ tự có được kiến thức mới. Máy học dựa trên dữ liệu. Do dữ liệu ngày càng nhiều, năng lực tính toán ngày càng mạnh, nên đã tạo ra những phát triển đột phá trong máy học.

Học sâu là một hướng phát triển lớn, đột phá, quan trọng của máy học. Học sâu dựa trên mô phỏng cấu trúc mạng nơ-ron và hoạt động của bộ não con người để xử lý, phân tích dữ liệu lớn, bao gồm cả dữ liệu cấu trúc và phi cấu trúc.

Có thể ví trí tuệ nhân tạo như là hệ thần kinh của con người.

Internet vạn vật - Internet of thing (IoT)

Internet vạn vật (IoT) là một công nghệ nền tảng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nếu như Internet là mạng lưới kết nối các thiết bị như máy tính, điện thoại thông minh… với nhau để trao đổi, chia sẻ dữ liệu, Internet vạn vật là mạng lưới kết nối vạn vật với nhau để làm việc tương tự. Nhờ có các cảm biến thông minh và kết nối mạng, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, những vật vô tri vô giác, vật dụng gia đình, như chiếc quạt điện, lò vi sóng, hay cành cây, ngọn cỏ “cất tiếng nói” và giao tiếp với nhau và với con người. Internet vạn vật đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối giữa môi trường thực và môi trường số.

Có thể ví Internet vạn vật như là các giác quan của con người.

Dữ liệu lớn

Dữ liệu được sinh ra từ hàng tỷ điện thoại thông minh, thiết bị cảm biến kết nối vạn vật và hoạt động của con người trên môi trường mạng. Mỗi một ngày dữ liệu sinh ra có thể lên đến tương đương dữ liệu lưu trữ trong một tỷ đĩa DVD trước đây. Nếu công nghệ trước kia cần một thời gian rất dài để xử lý dữ liệu như vậy thì công nghệ số hiện nay cho phép xử lý, phân tích trong khoảng thời gian ngắn hơn rất nhiều để trích rút ra thông tin, tri thức hoặc đưa ra quyết định một cách phù hợp. Nếu công nghệ trước kia xử lý dữ liệu có cấu trúc thì công nghệ số hiện nay chủ yếu xử lý và phân tích dữ liệu phi cấu trúc. Dữ liệu phi cấu trúc chiếm tới 70-80%, do vậy, chứa nhiều thông tin hơn dữ liệu có cấu trúc.

Có thể ví dữ liệu lớn như bộ não của con người.

Điện toán đám mây

Điện toán đám mây là công nghệ cho phép năng lực tính toán nằm ở các máy chủ ảo, gọi là đám mây trên Internet của các nhà cung cấp thay vì trong máy tính gia đình và văn phòng trên mặt đất, để mọi người kết nối, sử dụng như là dịch vụ khi họ cần. Một cách nôm na, điện toán đám mây cũng giống như điện lưới. Cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp thay vì đầu tư máy chủ tính toán của riêng mình, giống như máy phát điện, thì sử dụng dịch vụ điện toán đám mây giống như điện lưới, sử dụng đến đâu trả chi phí đến đó mà không phải bận tâm tới việc vận hành, quản lý.

Có thể ví điện toán đám mây như là cơ bắp của con người.

Công nghệ Chuỗi khối

Chuỗi khối, như tên gọi, là một chuỗi dữ liệu phân tán trên mạng, gồm các khối thông tin được liên kết với nhau bằng mã hóa và mở rộng theo thời gian. Vì mã hóa nên bảo mật. Vì phân tán nên không ai có thể kiểm soát toàn bộ. Vì liên kết nên bất cứ sự sửa đổi nào đều để lại dấu vết, chống chối bỏ. Vì tất cả yếu tố như vậy nên bảo đảm sự an toàn, tin cậy và minh bạch.

Với các đặc điểm như vậy, các giao dịch trong mạng chuỗi khối diễn ra tự động mà không cần bên thứ ba chứng nhận. Công nghệ chuỗi khối sẽ giảm dần và xóa bỏ vai trò của trung gian trong các giao dịch.

Câu chuyện về Thung lũng chuỗi khối

Zug là một thị trấn nhỏ ở Thụy Sĩ, có lịch sử từ năm 1200, cho đến năm 2013 vẫn là một trong số những thị trấn nghèo ở Thụy Sĩ. Năm 2009, Zug đi tiên phong trong việc ứng dụng chuỗi khối và năm 2013, Zug là nơi đầu tiên trên thế giới chấp nhận tiền kỹ thuật số dựa trên ứng dụng chuỗi khối. Và vì là nơi đầu tiên trên thế giới, nên chỉ trong 3 năm, đến năm 2016, Zug đã thu hút được 600 doanh nghiệp làm về chuỗi khối về Zug, trở thành thung lũng chuỗi khối của thế giới. Câu chuyện của Zug là câu chuyện đi đầu, dám chấp nhận cái mới, cho cái mới một cơ hội và vì thế chính Zug có cơ hội.

Các yếu tố cơ bản của Chuyển đổi số

1. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật số

Cơ sở hạ tầng kỹ thuật số là cơ sở cho việc sử dụng các công nghệ kỹ thuật số và tạo điều kiện cho sự tương tác giữa Chính phủ, doanh nghiệp và người dân. Sự sẵn sàng của cơ sở hạ tầng kỹ thuật số không phải là yếu tố quyết định duy nhất đối với ‘Chuyển đổi số’, nhưng nó là yếu tố quan trọng nhất. Khả năng truy cập và cơ sở hạ tầng kỹ thuật số đóng vai trò là nền tảng cho việc kết nối, trao đổi thông tin mang tính tự do và không giới hạn phạm vi trên toàn cầu.

Với cơ sở hạ tầng kỹ thuật số hiện đại cùng với chi phí phù hợp sẽ là nền tảng cho quá trình ‘Chuyển đổi số’ quốc gia. Trong quá trình ‘Chuyển đổi số’, xử lý và phân tích dữ liệu đóng vai trò vô cùng quan trọng và là cốt lõi cho việc thay đổi, phát triển các hoạt động kinh tế. Do đó, tăng cường khả năng truy cập và chia sẻ dữ liệu là rất quan trọng, đòi hỏi quốc gia phải đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật số để bảo đảm chất lượng, tính sẵn sàng cho việc kết nối.

Cơ sở hạ tầng kỹ thuật số đề cập đến các yếu tố như: tính kết nối; tốc độ kết nối; cơ sở hạ tầng Internet.

1.1. Tính kết nối (connectivity)

Nhu cầu về tính kết nối trong tương lai sẽ ngày càng tăng với việc hàng tỷ cảm biến, thiết bị IoT kèm theo việc ứng dụng công nghệ kỹ thuật số đang được triển khai rộng khắp trên thế giới. Khi mọi thứ trong xã hội được kết nối với nhau sẽ đòi hỏi việc truyền và xử lý dữ liệu cần phải thực hiện một cách nhanh chóng. Để có thể làm được điều đó đòi hỏi quốc gia phải tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật số.

Tăng trưởng thuê bao băng rộng di động đã vượt xa thuê bao băng rộng cố định. Theo ITU, trong 10 năm qua, tỷ lệ tăng trưởng của thuê bao băng rộng di động đã tăng trung bình 14,8% mỗi năm. Tại hầu hết các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển trở lên, việc sử dụng băng thông rộng di động có tỷ lệ cao hơn nhiều so với việc sử dụng băng thông rộng cố định so với quy mô dân số.

1.2. Tốc độ kết nối (Speed)

Tốc độ kết nối đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình ‘Chuyển đổi số’. Các doanh nghiệp trong thời đại chuyển đổi kỹ thuật số không thể lãng phí thời gian khi phải đối mặt với các quyết định quan trọng. Một quyết định rõ ràng và súc tích phải được đưa ra một cách kịp thời để đảm bảo lợi ích tốt nhất cho khách hàng. Một doanh nghiệp có thể giao hàng kịp thời và tự tin sẽ không chỉ đáp ứng mong đợi của khách hàng mà còn vươn lên dẫn đầu trên thị trường cạnh tranh. Bất kỳ sự chậm trễ, gián đoạn hoặc thời gian chết trong việc kết nối sẽ gây ra bất lợi, giảm tính cạnh tranh của doanh nghiệp.

Tương tự, khách hàng luôn muốn sử dụng sản phẩm, dịch vụ với tốc độ nhanh và thoải mái nhất. Không khách hàng nào mong muốn khi mua sắm trực tuyến phải đợi hàng phút đồng hồ để website hiển thị nội dung hàng hóa. Trong tương lai, không ai muốn xếp hàng hàng giờ đồng hồ chỉ để mua sắm hàng hóa thông thường. Tương tự, người dân cũng không mong muốn phải xếp hàng để thực hiện thủ tục hành chính thông thường nào đó của Chính phủ.

Tốc độ phản ứng của doanh nghiệp, Chính phủ phụ thuộc vào tốc độ kết nối của mạng băng rộng. Nếu doanh nghiệp mất quá nhiều thời gian, khách hàng sẽ mất. Nếu Chính phủ mất nhiều thời gian để tương tác với người dân, sẽ tăng thêm chi phí không đáng có, cản trở sự phát triển của xã hội, quốc gia.

Hiện  nay, nhiều quốc gia trên thế giới đang thực hiện chiến lược băng thông rộng, trong đó đặt mục tiêu tốc độ kết nối phải bảo đảm đáp ứng nhu cầu của xã hội. Tốc độ kết nối từ 100 Mbps đang ngày càng trở nên phổ biến. Ví dụ: Mỹ đặt mục tiêu có tốc độ băng thông rộng từ 100 Mbps trở lên cho 80% hộ gia đình. Một số quốc gia với quy mô dân số nhỏ còn nhắm mục tiêu cao hơn như: Luxembourg đặt mục tiêu có kết nối 1 Gbps cho tất cả các doanh nghiệp và hộ gia đình diễn ra vào năm 2020 và Thụy Điển đang nhắm tới tỷ lệ bao phủ 98% hộ gia đình vào năm 2025, Na Uy và Áo lần lượt đặt mục tiêu là 90% và 99%.

1.3. Cơ sở hạ tầng Internet

Cơ sở hạ tầng Internet là yếu tố quan trọng đối với doanh nghiệp, Chính phủ và người dân để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội cũng như phục vụ nhu cầu sử dụng. Nhờ có cơ sở hạ tầng Internet, thế giới đã hình thành những ngành công nghiệp mới như: sản xuất phần mềm, nội dung số, giải trí. Các ngành thương mại điện tử, du lịch, nông nghiệp, báo chí-xuất bản, quảng cáo… đã phát triển mạnh mẽ.

Ở lĩnh vực quản lý nhà nước, chính phủ điện tử đã dần hình thành và tiếp tục phát triển thành chính phủ số với các nội dung trọng tâm chính bao gồm việc xây dựng và triển khai các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành và cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình phục vụ người dân, doanh nghiệp. Có thể thấy được Internet đã trở thành hơi thở của cuộc sống. Nếu cơ sở hạ tầng Internet lỗi thời sẽ không đáp ứng kịp nhu cầu của Chính phủ, doanh nghiệp và người dân và sẽ làm cản trở việc số hóa, ứng dụng công nghệ kỹ thuật số trong hoạt động đổi mới, sáng tạo. Do đó, cơ sở hạ tầng Internet là một yếu tố quyết định chính (key enabler) của ‘Chuyển đổi số’.

2. Nền tảng số

Sức mạnh và tiềm năng của công nghệ và dữ liệu kỹ thuật số giúp cho Chính phủ, doanh nghiệp và người dân kết nối và tương tác với nhau hiệu quả hơn. Để thúc đẩy quá trình ‘Chuyển đổi số’ điều cần thiết là phải thúc đẩy việc áp dụng, phổ biến và sử dụng hiệu quả các công cụ kỹ thuật số trong doanh nghiệp và người dân. Nâng cao kỹ năng, hiểu biết công nghệ kỹ thuật số cho người dân và thúc đẩy sự sáng tạo trong Chính phủ, doanh nghiệp sẽ làm cho quốc gia thực hiện tiến trình ‘Chuyển đổi số’ nhanh và hiệu quả hơn.

Bên cạnh yếu tố thúc đẩy Chính phủ, doanh nghiệp áp dụng công nghệ kỹ thuật số để đổi mới trong cách thức hoạt động, đồng thời, Chính phủ cần có các chính sách tăng cường niềm tin cho doanh nghiệp, người dân trong môi trường kỹ thuật số, ví dụ bằng cách nâng cao nhận thức, trao quyền cho mọi người và các doanh nghiệp để quản lý rủi ro kỹ thuật số một cách tốt hơn.

Yếu tố này chủ yếu đề cập đến nội dung như: sử dụng hiệu quả hạ tầng và dữ liệu kỹ thuật số; Chính phủ, doanh nghiệp và người dân có khả năng khai thác và sử dụng lợi ích của công nghệ kỹ thuật số để tăng trưởng, cải thiện năng suất hoạt động.

2.1. Người sử dụng Internet

Dân số Việt Nam hơn 97 triệu dân, với tỷ lệ dân thành thị là 36%. Theo thống kê mới nhất, có khoảng 77 triệu người sử dụng Internet (chiếm 79,1% dân số), hơn 70 triệu người dùng mạng xã hội.

Cùng với sự phát triển của công nghệ, các dòng điện thoại phân khúc tầm trung,  thấp liên tục được ra đời giúp cho nhiều người có thể dễ dàng sở hữu những chiếc điện thoại thông minh và tiếp cận với Internet. Tổng số thuê bao băng rộng di động đạt 86,6 triệu (tương ứng với tỷ lệ 87,07 thuê bao/100 dân). Điều này cho thấy phần đông người dân Việt Nam đã tiếp cận với điện thoại di động thông minh và cũng không ít người sử dụng 2-3 chiếc điện thoại cùng một lúc để phục vụ cho cuộc sống.

Công nghệ di động đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy số lượng người sử dụng Internet. Ở các quốc gia phát triển như Hàn Quốc, Nhật Bản, Iceland hầu như tất cả người dùng đều truy cập Internet hàng ngày.

Các loại hoạt động trên môi trường Internet của người dân tập trung vào các nội dung như: mạng xã hội, thương mại điện tử, báo chí, giải trí.

2.2. Khả năng áp dụng công nghệ kỹ thuật số của doanh nghiệp

Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn cần đến những giải pháp công nghệ để tăng năng suất và hoạt động hiệu quả ở tất cả các khâu. Trong môi trường cạnh tranh và toàn cầu hóa như hiện nay, những doanh nghiệp không kịp thời nắm bắt công nghệ để đổi mới sáng tạo mà vẫn chọn phương thức kinh doanh truyền thống sẽ có nguy cơ rời khỏi thị trường. Đặc biệt, trước những thay đổi nhanh chóng từ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, nếu doanh nghiệp không thích ứng nhanh và tận dụng lợi thế tốt từ nền tảng công nghệ hiện đại để đổi mới, tối ưu hóa sản xuất sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị tụt hậu và khó có thể tồn tại.

Hiện nay, trên thế giới rất ít doanh nghiệp hoạt động mà không sử dụng công nghệ kỹ thuật số. Đặc biệt tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển, hầu hết các doanh nghiệp đều ứng dụng công nghệ kỹ thuật số trong hoạt đông sản xuất, kinh doanh.

Số lượng doanh nghiệp ứng dụng công nghệ điện toán đám mây và phân tích dữ liệu lớn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh đang ngày một nhiều, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại điện tử. Nhu cầu tuyển dụng lao động có kỹ năng về CNTT của doanh nghiệp đang ngày càng tăng lên. Điều này thể hiện rằng, khả năng tiếp cận, sử dụng công nghệ kỹ thuật số đang ngày càng quan trọng đối với doanh nghiệp.

Thực tiễn cho thấy, đổi mới công nghệ là rất quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Tiến bộ khoa học công nghệ, đổi mới công nghệ sẽ cho phép nâng cao chất lượng sản phẩm tạo ra nhiều sản phẩm mới, đa dạng hóa sản phẩm, tăng sản lượng, tăng năng suất lao động, sử dụng hợp lý tiết kiệm nguyên vật liệu… Nhờ đó, sẽ tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

2.3. Thương mại điện tử

Thương mại điện tử đang phát triển mạnh mẽ, là một phần không thể thiếu trong hoạt động của doanh nghiệp trên toàn thế giới.

Thương mại điện tử Việt Nam vẫn giữ tốc độ tăng trưởng ổn định ở mức 16%, doanh thu bán lẻ đạt 13,7 tỷ USD năm 2021; tỷ trọng doanh thu bán lẻ thương mại điện tử trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng cả nước đạt 7%, tăng 27% so với cùng kỳ năm 2020.

Với tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định như vậy, kết hợp với xu hướng chuyển dịch thói quen mua sắm của người tiêu dùng có thể khẳng định thương mại điện tử sẽ ngày càng chiếm lĩnh những vị thế quan trọng hơn đối với các doanh nghiệp.

2.4. Sự tương tác trực tuyến của người dân với Chính phủ

Chính phủ nhiều quốc gia trên thế giới đang cố tận dụng các công nghệ kỹ thuật số để làm cho các quy trình, dịch vụ CNTT, dữ liệu được người dân dễ dàng truy cập và tiếp cận hơn.

Một ví dụ quan trọng là việc ứng dụng công nghệ kỹ thuật số để kê khai thuế. Tất cả các quốc gia phát triển đều kê khai thuế trực tuyến cho ít nhất một số loại thuế (thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc hồ sơ thuế giá trị gia tăng của các doanh nghiệp). Chính phủ các nước đưa ra các quy định linh hoạt và mang tính thúc đẩy đối với hoạt động số hóa để tương tác với người dân. Tại Estonia, việc nộp tờ khai thuế thu nhập cá nhân trực tuyến là không bắt buộc nhưng 99% người dân thực hiện nộp tờ khai thuế trực tuyến do tiết kiệm thời gian, chi phí.

Thế giới đang thay đổi, Chính phủ cũng phải thay đổi cách thức hoạt động và sự tương tác với người dân. Nếu không thay đổi, Chính phủ sẽ tụt lại phía sau, gây cản trở đến tiến trình phát triển của quốc gia.

2.5. Kỹ năng số

Không có gì mới lạ khi chúng ta nhìn thấy các nhà báo nghiên cứu, lập kế hoạch, viết, hiệu đính… và gửi một bài báo cho nhà xuất bản, tất cả đều bằng điện thoại di động hoặc máy tính bảng của họ. Trong một số giác quan, các kỹ năng số làm cho nơi làm việc trở thành một nơi tự do và đơn giản hơn bao giờ hết. Rất nhiều công việc bây giờ có thể được thực hiện tại nhà, hoặc đang di chuyển.

Các kỹ năng như: sử dụng thư điện tử, soạn thảo văn bản trên máy tính, tổ chức và quản lý tài nguyên của công ty trên Cloud hoặc kỹ năng cơ bản khi sử dụng điện thoại thông minh, máy tính… đang được coi là những kỹ năng số cơ bản. Để thúc đẩy ‘Chuyển đổi số’, các quốc gia trên thế giới đang đổi mới chương trình giáo dục đào tạo nhằm tăng cường phổ cập kỹ năng số cho người dân. Một xã hội với người dân đều có kỹ năng số cơ bản sẽ là điều kiện bảo đảm để ‘Chuyển đổi số’ nhanh chóng, hiệu quả.

3. Đổi mới sáng tạo

3.1. Nghiên cứu khoa học và ứng dụng

Nghiên cứu khoa học đại diện cho nền tảng quan trọng đối với sự tiến bộ và đổi mới công nghệ. Những tiến bộ trong kiến thức khoa học là chìa khóa để phát triển các công nghệ kỹ thuật số mới. Các công nghệ kỹ thuật số được xây dựng chủ yếu dựa trên các công trình nghiên cứu khoa học

Trong thập kỷ qua, Trung Quốc gần như đã tăng gấp ba đóng góp cho các tạp chí khoa học máy tính, vượt qua Mỹ trong việc sản xuất các tài liệu khoa học trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, tỷ lệ tài liệu khi được viện dẫn trong các nghiên cứu khoa học trên thế giới của Trung Quốc vẫn ở mức gần 7%, thấp hơn mức trung bình của thế giới và thấp hơn Mỹ (17%).

Ở một số quốc gia, như Ý, Israel, Luxembourg và Ba Lan, các báo cáo nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực khoa học máy tính có tỷ lệ trích dẫn tương đối cao hơn nhiều so với sản xuất khoa học nói chung trong các quốc gia đó. Gần 20% các ấn phẩm khoa học máy tính của các tác giả có trụ sở tại Thụy Sĩ là một trong số 10% tài liệu khoa học được trích dẫn hàng đầu thế giới.

Nghiên cứu khoa học đại diện cho một nền tảng quan trọng cho sự tiến bộ và đổi mới công nghệ. Các nước có cường độ nghiên cứu khoa học cao sẽ có tỷ lệ đóng góp nhiều báo cáo nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực khoa học máy tính. Sự đầu tư vào công tác nghiên cứu khoa học là một yếu tố tác động tới sự thành công của quá trình ‘Chuyển đổi số’. Do đó, để chuyển đổi số thành công, cần có những phương án đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo để dẫn dắt công cuộc ‘Chuyển đổi số’.

Khu vực đầu tư nghiên cứu khoa học hiệu quả nhất là các trường đại học, viện nghiên cứu. Việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học tại khu vực đó sẽ đóng vai trò then chốt trong việc phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là sẽ tạo dựng được một đội ngũ nhân lực chất lượng cao, sẵn sàng cho quá trình ‘Chuyển đổi số’ đang diễn ra. Ðiều đó sẽ góp phần tạo ra những bước phát triển mạnh mẽ và đột phá kinh tế, xã hội và quốc gia.

3.2.    Dữ liệu mở (open data) của Chính phủ

Không ai phủ nhận được vai trò của dữ liệu ngày nay. Trong tiến trình số hóa và ‘Chuyển đổi số’ đang diễn ra trên toàn cầu, con người thường quan tâm đến vấn đề quan trọng là thu thập dữ liệu và phát triển các công nghệ xử lý dữ liệu.

Trong khu vực Chính phủ, việc chia sẻ dữ liệu sẽ giúp cơ quan nhà nước nâng cao công tác quản lý bằng cách cải thiện, thiết kế dịch vụ công theo hướng tiếp cận từ phía người dân. Chính phủ có thể thiết kế các chính sách dựa trên sự chia sẻ dữ liệu một cách toàn diện hơn, kích thích sự đổi mới trong và ngoài khu vực công, thúc đẩy sự tham gia của người dân, doanh nghiệp khai thác dữ liệu.

Để thúc đẩy tiến trình số hóa, mỗi quốc gia nên có các bộ dữ liệu bao phủ hầu hết các lĩnh vực của đời sống. Tuy nhiên không phải quốc gia nào, dù ở tình trạng phát triển, cũng có thể ngay một lúc sở hữu rất nhiều bộ dữ liệu mở bao phủ khắp các lĩnh vực đời sống, kinh tế, xã hội… bởi đây là một quá trình lâu dài với lượng kinh phí đầu tư lớn và đòi hỏi sự tham gia của rất nhiều nguồn lực. Do đó, mỗi quốc gia sẽ có những ưu tiên nhất định về việc cần tập trung xây dựng những bộ dữ liệu mở nào trước.

Có một xu hướng chung trong quá trình xây dựng dữ liệu mở ở nhiều quốc gia: hầu hết đều tập trung vào hình thành những bộ dữ liệu rất quan trọng và hữu ích cho cộng đồng với tiêu chí có càng sớm, càng đầy đủ càng tốt. Đó là các dữ liệu về địa lý, đơn vị hành chính, bản đồ (ví dụ chi tiết đến tọa độ, đường phố) vì sẽ hỗ trợ cho rất nhiều lĩnh vực như giao thông vận tải, giao hàng hóa trong các thương mại điện tử và bưu điện, xây dựng quy hoạch, du lịch v.v…

Việc Chính phủ xây dựng cơ sở dữ liệu mở và công khai chia sẻ cho xã hội sẽ giúp doanh nghiệp tạo ra nhiều ứng dụng kỹ thuật số, tạo ra nhiều sản phẩm, hàng hóa, mô hình kinh doanh mới khi có thể tận dụng được nguồn tài nguyên vô cùng giá trị và có độ tin cậy cao; giúp người dân cảm thấy tin tưởng hơn vào các thông tin trên môi trường số, góp phần thúc đẩy quá trình ‘Chuyển đổi số’ một cách nhanh hơn.

4. Chuyển đổi kỹ năng cho người lao động

4.1. Việc làm

‘Chuyển đổi số’ dẫn đến sự phá hủy mô hình cũ và sáng tạo ra những mô hình mới. Sự phát triển khoa học và công nghệ và như: robot, tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, IoT dấy lên lo ngại sẽ đánh cắp việc làm của người lao động trong kỷ nguyên số.

Theo đánh giá của ILO, Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ lực lượng lao động bị ảnh hưởng bởi tự động hóa cao nhất, xếp phía sau là Trung Quốc. Ước tính 86% lao động trong ngành dệt may, da giày và 75% lao động trong ngành điện tử của Việt Nam có thể sẽ phải đối mặt với nguy cơ tự động hóa cao do những tiến bộ về khoa học, kỹ thuật.

Đặc biệt, kỷ nguyên kỹ thuật số sẽ tạo ra những thay đổi lớn về cung - cầu lao động. Các nhà kinh tế và khoa học cảnh báo, thị trường lao động sẽ bị thách thức nghiêm trọng giữa cung và cầu lao động cũng như cơ cấu lao động. Trong một số lĩnh vực, với sự xuất hiện của robot, số lượng nhân viên cần thiết sẽ chỉ còn 1/10 so với hiện nay. Như vậy, 9/10 nhân lực còn lại sẽ phải chuyển nghề hoặc thất nghiệp. Điều đó nói lên rằng kỷ nguyên kỹ thuật số sẽ tạo nguy cơ dư thừa lao động ở một số ngành nghề. Bên cạnh đó, kỹ nguyên kỹ thuật số sẽ triệt tiêu lao động giản đơn, nhất là người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và thủ công. Điều này có thể sẽ tạo ra thất nghiệp và gây bất ổn xã hội.

Tuy nhiên, đi kèm với nguy cơ mất việc làm vào máy móc thì ‘Chuyển đổi số’ sẽ tạo điều kiện cho sự xuất hiện các mô hình mới, giúp giải quyết các vấn đề của thị trường lao động. Lấy ví dụ về sự ra đời của nền kinh tế tự do (gig economic) với hàng ngàn việc làm ngắn hạn được tạo ra khi hình thành các khởi nghiệp công nghệ như Uber, Lyft, AirBnB, Grab...

Những thông tin về việc robot cướp việc làm và sự bùng nổ của công nghệ luôn thu hút độc giả khi đưa ra những lời “hù dọa” về một tương lai thất nghiệp bất kể mọi lĩnh vực. Nhưng lịch sử đã chứng minh hoàn toàn ngược lại, việc ứng dụng robot và tự động hóa sẽ tạo ra nhiều việc làm mới với mức lương cao hơn những việc làm mà nó đã thay thế. Lý do đơn giản là các doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở việc áp dụng công nghệ để sản xuất cùng một sản lượng với chi phí thấp hơn, việc đầu tư công nghệ và tự động hóa đòi hỏi rất nhiều vốn và qua đó, những doanh nghiệp này sẽ hướng tới việc sản xuất những sản phẩm mới hơn, cao cấp hơn để tăng doanh thu và chiếm lấy thị trường mới. Để đạt được mục tiêu này, các công ty áp dụng tự động hóa sẽ cần hơn nữa những nhân công mới.

Sự phát triển của kỷ nguyên số là cơ hội có thể tạo nhiều việc làm mới hơn, thu nhập cao hơn với điều kiện người lao động cần trang bị thêm những kỹ năng và kiến thức cần thiết thông qua những chương trình và chiến lược đào tạo của Chính phủ và doanh nghiệp.

4.2. Nguồn nhân lực chất lượng cao

Trong kỷ nguyên kỹ thuật số, thị trường lao động, việc làm của Việt Nam là lĩnh vực được dự báo sẽ chịu nhiều tác động nhất khi các chuyên gia nhận định rằng, Việt Nam sẽ thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao trong khi tỷ lệ thất nghiệp sẽ ngày càng gia tăng.

Với ‘Chuyển đổi số’, trong khoảng 15 năm tới, thế giới sẽ có diện mạo mới, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thay đổi. Theo dự báo, hơn 90% doanh nghiệp sẽ bị tác động bởi số hóa trong hai năm tới. Mối đe dọa chính là tự động hóa, robots, trí thông minh nhân tạo và số hóa. Vì vậy, nhu cầu về kỹ năng của lực lượng lao động sẽ tăng cao.

Trong khi đó, tại Việt Nam, nhân sự quản lý cấp cao đang thiếu hụt trầm trọng. Tại Việt Nam, tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật mới chỉ có chưa tới 20% trong tổng số lao động. Vì thế, Việt Nam sẽ thiếu nguồn lao động chất lượng cao trong tương lai. Bên cạnh đó, lực lượng lao động thiếu nhiều kỹ năng cần thiết như làm việc nhóm, giải quyết vấn đề, kỹ năng tin học, ngoại ngữ, đạo đức nghề nghiệp chưa cao; thiếu ý thức trách nhiệm và chậm thích nghi với môi trường làm việc mới; Năng lực đổi mới sáng tạo khoa học và công nghệ của lao động có trình độ cao còn nhiều yếu kém… Đây là vấn đề đáng báo động về chất lượng nguồn nhân lực không đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

4.3.    Kỹ năng sử dụng CNTT trong công việc

Để thích ứng với kỷ nguyên số, người lao động cần phải trang bị các kỹ năng CNTT và ứng dụng vào công việc. Hiện nay, hầu hết các công việc đều cần đến máy tính và sử dụng phần mềm phục vụ cho công việc.

Trao đổi thư điện tử hoặc nhập dữ liệu vào cơ sở dữ liệu là hoạt động phổ biến nhất khi người lao động sử dụng máy tính tại nơi làm việc. Tạo hoặc chỉnh sửa tài liệu điện tử cũng là một trong các hoạt động phổ biến. Tại một số nước Liên minh châu Âu, người lao động sử dụng phương tiện truyền thông cho mục đích công việc ít nhất mỗi tuần một lần. Trung bình, 30% công nhân tại Liên minh châu Âu sử dụng các ứng dụng trực tuyến để nhận các nhiệm vụ hoặc hướng dẫn cho công việc ít nhất một lần một tuần và khoảng 11% thường xuyên làm việc trên hệ thống phát triển và bảo trì hệ thống CNTT và phần mềm CNTT.

Tại Liên minh Châu Âu, trong năm 2018 thì khoảng 64% người lao động sử dụng máy tính hoặc thiết bị máy tính tại nơi làm việc và báo cáo rằng các kỹ năng của họ tương ứng tốt với các khía cạnh liên quan đến CNTT trong công việc. Trong khi đó, 11% báo cáo cần được đào tạo thêm để đối phó với các yêu cầu liên quan đến CNTT trong công việc.

Việc thành thạo các kỹ năng số của người lao động đang trở nên quan trọng hơn bao giờ hết để có thể theo kịp với nhu cầu của thị trường lao động và để thích ứng với kỷ nguyên số đang diễn ra hiện nay.

4.4. Giáo dục và đào tạo

Nhân lực CNTT đóng vai trò quan trọng trong ‘Chuyển đổi số’. Có hai vấn đề chính cần xét đến đối với yếu tố này, đó là: chất lượng giáo dục và khả năng thu hút sinh viên theo học chuyên ngành kỹ thuật tại các trường đại học, cao đẳng.

Theo các chuyên gia dự báo, trong tương lai số nhân lực CNTT được cho sẽ thiếu hụt lớn. Các quốc gia trên thế giới hiện nay cũng đang cải tiến chương trình giáo dục, đưa vào các nội dung giảng dạy những công nghệ kỹ thuật số mới và đưa ra các chính sách thu hút nguồn nhân lực CNTT trên khắp thế giới đến làm việc.

Việt Nam hiện nay có khoảng hơn 240 trường đại học, trong đó gần 160 trường có chuyên ngành đào tạo kỹ thuật: công nghệ thông tin, điện tử - viễn thông, an toàn thông tin…. Hàng năm, số lượng sinh viên tốt nghiệp các chuyên ngành này vào khoảng hơn 50.000 (nếu tính cả đào tạo cao đẳng, trung cấp thì con số này vào khoảng hơn 62.000). Với năng lực đào tạo này, trong những năm gần đây, Việt Nam đang đứng trước nguy cơ thiếu hụt nguồn nhân lực kỹ thuật cao để thực hiện chuyển đổi số, trong khi đó, nhu cầu tuyển dụng của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp ngày càng lớn. Ước tính, Việt Nam đang thiếu hụt khoảng 100.000 - 150.000 nhân lực kỹ thuật số.

Không chỉ là vấn đề số lượng, chúng ta cũng thiếu hụt nhân lực có kiến thức, kỹ năng, làm chủ các công nghệ mới, công nghệ đặc trưng của chuyển đổi số như: trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu hay tự động hóa. Các công nghệ số đang có tốc độ phát triển nhanh, trong khi đó, chương trình đào tạo đang chưa theo kịp.

5. Niềm tin vào môi trường kỹ thuật số

5.1. An toàn thông tin

Số hóa thông tin và kết nối mạng đang tạo ra những thách thức mới để bảo vệ dữ liệu nhạy cảm của người dân và doanh nghiệp, ảnh hưởng đến niềm tin của các doanh nghiệp và cá nhân trong các hoạt động trực tuyến. Để hoàn toàn nắm bắt và khai thác hiệu quả ‘Chuyển đổi số’, người dân, doanh nghiệp và Chính phủ cần phải có niềm tin khi tham gia vào môi trường kỹ thuật số để tiến hành các hoạt động kinh tế và xã hội.

Tại các quốc gia Châu Âu, khoảng 32% doanh nghiệp có chính sách bảo mật CNTT. Tuy nhiên, tỷ lệ này rất khác nhau giữa các quốc gia và theo quy mô doanh nghiệp. Trong khi 27% doanh nghiệp nhỏ ở châu Âu có chính sách bảo mật CNTT chính thức, tỷ lệ này ở Mỹ thấp hơn ở mức 23%. Điều này cho thấy các doanh nghiệp chưa có sự quan tâm, đầu tư đúng mức vào việc bảo đảm an toàn thông tin trên môi trường kỹ thuật số. Tỷ lệ người dùng Internet bị ảnh hưởng bởi virus máy tính hoặc nhiễm máy tính khác, dẫn đến hậu quả là mất thông tin đã giảm kể từ năm 2010 ở hầu hết các quốc gia. Điều này có thể là do sự tích hợp của phần mềm chống vi-rút vào các hệ điều hành và tăng nhận thức chung về vấn đề này. Chiến lược bảo đảm an toàn thông tin là việc mô tả cách các quốc gia chuẩn bị và ứng phó với các cuộc tấn công vào các mạng kỹ thuật số. Chúng có thể được coi là một khía cạnh quan trọng của sự sẵn sàng quốc gia về mặt quản lý rủi ro an ninh kỹ thuật số trong quá trình ‘Chuyển đổi số’. 

An toàn thông tin luôn là yếu tố then chốt trong quá trình chuyển đổi số. Đây cũng được coi là xu thế chung trên thế giới hiện nay. Song song với sự phát triển và ứng dụng rộng rãi của CNTT thì mức độ thiệt hại và tác động khi xảy ra sự cố mất an toàn thông tin theo đó cũng ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực. Bởi vậy, Chính phủ và các doanh nghiệp, người dân cần nhận thức đầy đủ hơn, chuẩn bị các nguồn lực về kỹ thuật, con người để sẵn sàng phản ứng với các sự cố an toàn thông tin.

5.2. Dữ liệu cá nhân

Với sự sẵn có của các dịch vụ trực tuyến, con người đang ngày càng cung cấp nhiều thông tin cá nhân cho các nhà cung cấp dịch vụ trên nền tảng trực tuyến. Điều này đã tạo ra những thách thức mới cho việc bảo vệ dữ liệu cá nhân.

Hiện nay phần lớn người dùng Internet có hoạt động cung cấp thông tin cá nhân trực tuyến và thực hiện quyền kiểm soát quyền truy cập vào các dữ liệu này. Các cá nhân có độ tuổi thành niên và có trình độ học vấn cao là đối tượng chia sẻ thông tin cá nhân trực tuyến nhiều nhất, nhưng cũng có hành động để kiểm soát truy cập thông tin chặt chẽ hơn so với các cá nhân trung niên trở lên.

Nhận thức về bảo vệ dữ liệu cá nhân trên mạng còn hạn chế. Nhiều thông tin cá nhân bao gồm các thông tin sinh trắc học, lý lịch cá nhân, mối quan hệ, tình trạng sức khoẻ, tài chính được đăng tải công khai, trở thành nguồn dữ liệu cho các chương trình thu thập thông tin dữ liệu. Tình trạng lộ, lọt, đánh cắp, buôn bán thông tin cá nhân trên không gian mạng cũng thường xuyên diễn ra. Ví dụ: vụ bán thông tin giữa Facebook và công ty tư vấn chính trị Cambridge Analytica liên quan đến khả năng chi phối cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ khiến Mark Zuckerberg phải ra điều trần trước quốc hội Mỹ.

5.3. Độ tín nhiệm của người dân khi tham gia vào môi trường kỹ thuật số

Thương mại điện tử trở thành xu hướng tất yếu không chỉ với Việt Nam mà với toàn thế giới. Các doanh nghiệp lớn đang chuyển mình dần theo xu thế thời đại CNTT và ngoài việc kinh doanh offline truyền thống họ bắt đầu kinh doanh online, lập website, trang fanpage, xây dựng các module bán hàng trực tuyến.

Trong giao dịch thương mại truyền thống thì khi khách hàng phải bỏ nhiều thời gian và công sức của mình để đi và chọn lựa sản phẩm ở nhiều nơi để so sánh giá cả và chất lượng. Còn đối với thương mại điện tử, việc mua bán đã trở nên đơn giản và thuận tiện hơn bao giờ hết. Chỉ với thao tác trên điện thoại hoặc máy tính có kết nối Internet và họ giao dịch với nhau trên trang web. Trong thương mại truyền thống thì việc mua bán của bạn bị giới hạn trong một phạm vi nhất định. Bạn sẽ không thể có nhiều lựa chọn cho sản phẩm mình cần mua. Đối với thương mại điện tử, mua sắm xuyên biên giới là điều hết sức đơn giản.

Thương mại điện tử đang có bước phát triển rất nhanh nhờ hệ thống viễn thông phát triển vượt bậc. Dù phát triển mạnh song hiện nay phần lớn các giao dịch mua hàng qua mạng vẫn thanh toán theo phương thức trả tiền sau, đây là thách thức lớn đối với thương mại điện tử.

Điều này chứng tỏ rằng độ tín nhiệm (hay gọi là lòng tin) của khách hàng ở mức thấp. Các doanh nghiệp chưa thực sự tạo dựng được mức độ uy tín cần thiết để làm thay đổi thói quen mua sắm của khách hàng. Vì phần lớn tâm lý khách hàng vẫn có suy nghĩ phải cân đo đong đếm cụ thể, cầm nắm được sản phẩm rồi mới quyết định tới việc trả tiền mua sắm. Trong các loại giao dịch trực tuyến, độ tín nhiệm nổi lên như là loại tiền tệ quan trọng.

Những phát hiện chính và là chìa khóa ảnh hưởng tới niềm tin của người dân khi tham gia vào giao dịch môi trường kỹ thuật số đó là: Thanh toán an toàn, bảo mật dữ liệu và khả năng xem hình ảnh của hàng hóa hoặc dịch vụ là những yếu tố hàng đầu. Khách hàng có xu hướng đọc thông tin đánh giá, xếp hạng (vote số sao) đối với dịch vụ trực tuyến và số lượng khách hàng đã thực hiện giao dịch, số lượng giao dịch càng nhiều, niềm tin của khách hàng đối với dịch vụ đó càng cao.

6. Thúc đẩy sự thịnh vượng của xã hội

6.1. Cuộc sống hàng ngày

Nền tảng trực tuyến là một tính năng ngày càng quan trọng của cả nền kinh tế quốc gia và nền kinh tế toàn cầu. Nền tảng trực tuyến xuất hiện trong mọi lĩnh vực của cuộc sống hàng ngày như: vận chuyển, giao hàng, tài chính, giáo dục, giao tiếp, giải trí…

Phương tiện truyền thông xã hội có thể cho phép các cá nhân duy trì các mối quan hệ xã hội hiện có và xây dựng các mối quan hệ mới. Bằng chứng về tác động của các mạng xã hội trực tuyến đối với con người đang ngày càng trở nên phổ biến hơn.

Các chuyên gia cảnh báo rằng, liên hệ xã hội trực tuyến có thể vượt qua các tương tác thực tế và thay thế dần tương tác trực tiếp. Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến ủng hộ các mạng xã hội trực tuyến sẽ giúp cải thiện, làm đa dạng hơn trong việc tương tác của con người. Xét trên khía cạnh tổng thể, không phải tất cả các đối tượng xã hội đều được hưởng lợi từ các mạng xã hội trực tuyến. Ví dụ: những người có vấn đề về di chuyển, khuyết tật, cao tuổi có thể được hưởng lợi rất nhiều từ các mạng trực tuyến.

Ví dụ về ngân hàng trực tuyến: ở hầu hết các quốc gia, các cá nhân trong nhóm có thu nhập cao nhất thường sử dụng ngân hàng trực tuyến, trong khi những người ở nhóm thấp có xu hướng sử dụng ngân hàng trực tuyến thấp hơn nhiều. Ở một số quốc gia, các cá nhân có thu nhập thấp có thể có xu hướng không sử dụng dịch vụ ngân hàng hoặc sử dụng các ngân hàng địa phương nhỏ không cung cấp dịch vụ ngân hàng trực tuyến.

Để phục vụ cho quá trình thúc đẩy ‘Chuyển đổi số’, Chính phủ cần có khả năng đánh giá các nền tảng trực tuyến tác động tới cuộc sống hàng ngày của con người, cách mà con người sử dụng phương tiện kỹ thuật số phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.

6.2. Môi trường

Việc sản xuất và sử dụng các sản phẩm kỹ thuật số có liên quan đến quá trình tạo ra các loại khí CO2, hiệu ứng nhà kính. Sự phát triển của các thiết bị kỹ thuật số sẽ kéo theo các nguy cơ trong việc giải quyết vấn đề rác thải điện tử.

Theo tính toán, lượng rác điện tử thải ra trên thế giới là khoảng 40 triệu tấn/năm và loại rác thải này tăng nhanh gấp 3 lần so với các loại rác khác. Một trong những lý do là lượng tiêu thụ loại sản phẩm này liên tục gia tăng, đặc biệt là ở các nước đông dân và đang phát triển nhanh như Trung Quốc và Ấn Độ.

CNTT và hàng điện tử là những sản phẩm chính trong vấn đề này, chiếm phần lớn lượng khí thải ở hầu hết các quốc gia. Những hàng hóa này cũng tạo thành một thách thức môi trường vào cuối vòng đời của chúng, tạo ra mức độ rác thải điện tử ngày càng tăng. Xử lý không đúng cách và không an toàn thông qua đốt mở hoặc trong bãi rác gây ra những rủi ro đáng kể cho môi trường và sức khỏe con người, đồng thời cũng đặt ra một số thách thức đối với việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.

Các quốc gia có ngành công nghiệp điện tử phát triển nhất thế giới như Châu Âu, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Australia là các quốc gia thải nhiều rác điện tử nhất. Nhưng thay vì tái chế tại chỗ, các nước này lại chọn cách nhanh gọn hơn: xuất khẩu ra nước ngoài. Phần lớn loại rác thải điện tử được xuất khẩu sang những quốc gia đang phát triển dưới dạng đồ cũ để bán lại hoặc tái chế. Các nước phát triển không muốn tái chế rác thải điện tử mà lại xuất khẩu ra nước ngoài là vì như vậy vừa giảm chi phí xử lý vừa đỡ ô nhiễm môi trường. Theo Tổ chức Hòa bình Xanh, từ 50% -80% rác thải điện tử ở Mỹ được xuất khẩu sang Trung Quốc, Ấn Độ và các quốc gia đang phát triển khác, trong đó có Việt Nam.

Những thách thức môi trường được tạo ra bởi rác thải điện tử là do việc các thiết bị kỹ thuật số thường chứa các chất độc hại và gây hại cho môi trường. Yếu tố này cũng ảnh hưởng đáng kể đến quá trình ‘Chuyển đổi số’ và để khắc phục, Chính phủ có thể đưa ra các giải pháp quản lý, xử lý phù hợp để giảm thiểu nguy cơ rác thải điện tử, bảo đảm cho mục tiêu phát triển xã hội một cách bền vững.

7. Thúc đẩy cạnh tranh và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh

7.1. Chuỗi giá trị toàn cầu

‘Chuyển đổi số’ ảnh hưởng đến tất cả các ngành công nghiệp (bao gồm cả sản xuất và dịch vụ). Các công nghệ kỹ thuật số đang thay đổi môi trường mà các công ty cạnh tranh, thương mại và đầu tư. Sự mở cửa của thị trường cho phép số hóa phát triển mạnh mẽ bằng cách tạo ra một môi trường thân thiện với doanh nghiệp cho phép các doanh nghiệp nước ngoài và trong nước cạnh tranh bình đẳng và không bị hạn chế quá mức hoặc điều kiện nặng nề. Sự mở cửa thị trường cũng thúc đẩy cạnh tranh và giúp các doanh nghiệp, trong và ngoài nước, gặt hái những lợi ích của thương mại và đầu tư, góp phần tăng trưởng kinh tế

Công nghệ kỹ thuật số tác động sâu sắc đến thương mại quốc tế bằng cách giảm chi phí thương mại; tạo điều kiện cho sự phối hợp của các chuỗi giá trị toàn cầu; phổ biến ý tưởng và công nghệ xuyên biên giới; kết nối số lượng lớn các doanh nghiệp và người tiêu dùng trên toàn cầu. Các công nghệ mới và một hệ sinh thái Internet mở có khả năng tạo ra các cơ hội mới cho thương mại, cho phép tạo ra các chuỗi giá trị mới với khách hàng, mô hình kinh doanh mới, qua đó thúc đẩy sự đổi mới.

Nhiều mô hình, giải pháp ứng dụng CNTT trong ngành nông nghiệp Việt Nam đã được triển khai và đem lại hiệu quả tích cực như: Sàn giao dịch nông sản, hệ thống thông tin nông nghiệp, giải pháp ứng dụng CNTT trong chăn nuôi và hệ thống giám sát môi trường nông nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã biết ứng dụng IoT và Bigdata để sáng tạo ra các sản phẩm công nghệ phù hợp với người dân Việt Nam. 

7.2. Kinh tế số

‘Chuyển đổi số’ ảnh hưởng lớn đến thương mại. Đặc biệt, Internet đã giúp việc mua, bán và cung cấp hàng hóa, dịch vụ một cách dễ dàng hơn. Trong tương lai, Internet, an toàn thông tin, dữ liệu và các công nghệ kỹ thuật số khác sẽ là một yếu tố quyết định quan trọng trong lĩnh vực kinh tế số.

Công nghệ kỹ thuật số đã thay đổi tính kinh tế của việc kinh doanh bằng cách hạ thấp các rào cản và giảm chi phí cho các tương tác xuyên biên giới, cho phép tạo ra thương mại đối với hàng hóa và dịch vụ kỹ thuật số. Với sự mờ nhạt của ranh giới ngành và quốc gia trong lĩnh vực kỹ thuật số, cạnh tranh cũng đã được xác định lại trên toàn cầu.

Số hóa là rất quan trọng đối với các doanh nghiệp về việc tăng năng suất, thúc đẩy tăng trưởng, gặt hái giá trị trong nền kinh tế số. Nó đòi hỏi nhiều hơn là chỉ sử dụng các công nghệ kỹ thuật số, mà còn liên quan đến việc chuyển đổi mô hình kinh doanh và suy nghĩ lại các phương pháp hoạt động để tận dụng tối đa các khả năng mà công nghệ kỹ thuật số cung cấp.

7.3. Chính sách thu hút đầu tư và mở cửa thị trường

‘Chuyển đổi số’ làm giảm đáng kể chi phí tham gia hoạt động thương mại quốc tế. Số hóa cũng đang góp phần thúc đẩy lĩnh vực thương mại điện tử. Về cơ bản, các quy định về thương mại truyền thống đã được xây dựng một cách hoàn chỉnh, tuy nhiên các quy định về thương mại điện tử, kinh tế số chưa được xây dựng để đáp ứng nhu cầu thực tiễn phát triển.

Với chính sách mở cửa thị trường, các doanh nghiệp nước ngoài có thể tận dụng công nghệ kỹ thuật số để thực hiện hoạt động kinh doanh trên toàn cầu. Việc sử dụng những công nghệ kỹ thuật số trong môi trường cởi mở, ít rào cản cũng thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ. Do đó, việc xây dựng những chính sách có độ mở cửa thị trường cao, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thị trường tài chính mở sẽ thúc đẩy quá trình ‘Chuyển đổi số’ và là động lực tăng trưởng kinh tế xã hội.

Yếu tố thành công của chuyển đổi số là gì?

Có ba yếu tố cơ bản quyết định thành bại của chuyển đổi số.

1) Yếu tố con người: Chuyển đổi số là việc chuyển đổi của con người, nên đây là yếu tố quan trọng và quyết định nhất. Hai vấn đề chính của con người trong chuyển đổi số là nhận thức và năng lực.

Nhận thức của lãnh đạo là quan trọng hàng đầu để có quyết tâm và lãnh đạo chuyển đổi số cho đúng, rồi đến nhận thức của mọi thành viên trong tổ chức,

Năng lực liên quan đến đào tạo, cả đào tạo lực lượng tinh hoa và toàn bộ lực lượng tham gia sản xuất.

Và hiểu được yếu tố con người là yếu tố quyết định thành bại của chuyển đổi số, ngày 28/01/2022, tại Quyết định số 146/QĐ-TTg Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của lãnh đạo và cán bộ của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp để thúc đẩy thực hiện chuyển đổi số. Phổ cập kỹ năng số cho các đối tượng tham gia vào quá trình chuyển đổi số quốc gia. Nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương. Đề án xác định quan điểm nâng cao nhận thức là tiên quyết để thực hiện chuyển đổi số vì nhận thức đóng vai trò quyết định trong chuyển đổi số. Phổ cập kỹ năng số là chìa khóa để người dân được tiếp cận kiến thức, kỹ năng số để cùng tham gia vào quá trình chuyển đổi số, mở ra cơ hội tiếp cận các dịch vụ số một cách bình đẳng, giúp xây dựng một xã hội số bao trùm và toàn diện. Phát triển nguồn nhân lực là then chốt để thực hiện chuyển đổi số hiệu quả và bền vững, giúp thực hiện thành công các mục tiêu trong Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Sau 01 năm triển khai Đề án, các bộ, ngành, địa phương đã tích cực thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Đề án và bước đầu đạt được những kết quả nhất định. [XEN VIDEO TỔNG KẾT VỀ ĐỀ ÁN 146].

2) Yếu tố thể chế: Chuyển đổi số là những thay đổi diễn ra trong khuôn khổ của thể chế. Thể chế đã được xây dựng trước câu chuyện chuyển đổi số và do vậy một hệ thống thể chế phù hợp hỗ trợ cho chuyển đổi số có vai trò nền tảng cần được tiếp tục hoàn thiện. Các sandbox về pháp lý cần được thực hiện.

Thể hiện sự quan tâm đến yếu tố này, thời gian qua, thực hiện Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 20230, công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế đã có những kết quả rõ ràng:

- Môi trường pháp lý cho chuyển đổi số: Các bộ, ngành đã quan tâm, đẩy mạnh công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế nhằm tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy chuyển đổi số. Theo số liệu tổng hợp từ các bộ, ngành giai đoạn 2021-2022, đã có trên 20 văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành để kiến tạo môi trường thể chế, chính sách thúc đẩy chuyển đổi số nói chung như: xác thực, định danh điện tử; khai thác sử dụng dữ liệu dân cư; cung cấp dịch vụ công trực tuyến; giải quyết thủ tục hành chính trên môi trường mạng và các chính sách về chuyển đổi số trong từng ngành, lĩnh vực như: giáo dục, việc làm, thư viện, di sản văn hóa, nông nghiệp,…

- Chủ trương, chính sách về chuyển đổi số tại các bộ, ngành, địa phương: 05/30 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ ban hành Nghị quyết của Ban cán sự Đảng về chuyển đổi số như  Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Đài Truyền hình Việt Nam; 29/30 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ ban hành Chương trình, Kế hoạch chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025 (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam chưa ban hành); 63/63 tỉnh, thành phố ban hành Nghị quyết của Tỉnh ủy, thành ủy về chuyển đổi số; 63/63 tỉnh, thành phố ban hành Chương trình, Kế hoạch chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025. Trong năm 2022, 100% các bộ, cơ quan ngang bộ, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành kế hoạch thực hiện chuyển đổi số.

Nhìn chung các cơ quan từ Trung ương đến địa phương đã thực hiện tốt công tác định hướng, xây dựng và ban hành thể chế, chính sách về chuyển đổi số; đã có sự tham gia, vào cuộc của Đảng, chính quyền các cấp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Điều này thể hiện nhận thức về chuyển đổi số đã được chuyển biến tích cực, dần đi vào thực thi, hành động.

3) Yếu tố công nghệ: Là điều kiện cần và quyết định chất lượng của chuyển đổi số. Yếu tố công nghệ ở đây bao gồm hạ tầng số, các nền tảng số, các công nghệ số chuyên dụng cho từng lĩnh vực.

Trong thực tế triển khai nhiệm vụ chuyển đổi số quốc gia gắn với yếu tố này, việc xây dựng các cổng dịch vụ công trực tuyến và các nền tảng số quốc gia là minh chứng rõ nét.

Trong đó, Cổng DVC quốc gia đã cung cấp 4.396 dịch vụ công trực tuyến (trong đó có 21/25 dịch vụ công thiết yếu theo Đề án 06) của các bộ, ngành, địa phương trên Công DVC quốc gia với trên 01 tỷ lượt truy cập tra cứu thông tin, sử dụng dịch vụ; hơn 152 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái; hơn 07 triệu hồ sơ trực tuyến thực hiện từ Cổng; hơn 07 triệu giao dịch thanh toán trực tuyến. Cổng DVC trực tuyến của các bộ, ngành, địa phương được xây dựng, triển khai cung cấp DVC trực tuyến và thực hiện tích hợp các dịch vụ công trực tuyến với Cổng DVC quốc gia hướng tới thiết lập một cổng điện tử giải quyết thủ tục hành chính trên môi trường điện tử. Cung cấp DVC trực tuyến đã đem lại những hiệu quả cụ thể, tiết kiệm cả về thời gian và chi phí cho người dân, doanh nghiệp; nâng cao tính công khai, minh bạch hoạt động của chính quyền các cấp góp phần phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng khi giải quyết thủ tục hành chính cho người dân; thúc đẩy chuyển đổi số, xây dựng xã hội số.

Đối với các nền tảng số, các nền tảng số đã được các bộ, ngành, địa phương quan tâm, xây dựng, phát triển. Bước đầu đã hình thành các nền tảng số quốc gia phục vụ cả khối chính quyền, doanh nghiệp và người dân nhằm thúc đẩy phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Một số ngành, lĩnh vực đang chuyển đổi cách tiếp cận phát triển hệ thống, tích hợp trước đây sang phát triển theo cách làm nền tảng dùng chung.

* Nền tảng số quốc gia:

- Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP) đã kết nối, liên thông với 09 CSDL, 14 hệ thống quy mô quốc gia để chia sẻ dữ liệu với trên 90 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trung bình khoảng 2,4 triệu giao dịch/ngày. 

- Nền tảng định danh và xác thực điện tử: Đến hết tháng 12/2022, hệ thống đã thu nhận gần 19 triệu hồ sơ; phê duyệt gần 17 triệu tài khoản định danh điện tử cho công dân.

- Nền tảng kỹ năng số quốc gia: Đã xây dựng, đang phát triển hoàn thiện nền tảng đào tạo trực tuyến OneTouch, cung cấp các khóa đào tạo chuyển đổi số cho các đối tượng nòng cốt, đối tượng chuyên trách, CBCC cấp xã, người dân,… với các chuyên đề chuyển đổi số cơ bản, an toàn thông tin, cách tiếp cận nền tảng trong chuyển đổi số,… hiện nay tổng số gần 18 triệu lượt tham gia.

- Nền tảng số y tế: Ngành Y tế đang phát triển, hoàn thiện các nền tảng như Nền tảng hồ sơ sức khỏe điện tử; nền tảng quản lý trạm y tế xã; Nền tảng quản lý thông tin y tế (đã thí điểm tại 06/63 tỉnh, thành phố); Hệ thống kết nối các cơ sở cung ứng thuốc và ngân hàng dữ liệu ngành dược.

- Nền tảng số giáo dục: Ngành giáo dục đã triển khai các nền tảng quản trị nhà trường, nền tảng quản lý học tập dùng chung miễn phí cho giáo dục phổ thông; đầu tư xây dựng nền tảng dạy học trực tuyến dùng chung (MOOCs) và xây dựng các khóa học trực tuyến ở một nhóm ngành: kỹ thuật và công nghệ; kinh tế; kinh doanh và quản lý; khoa học tự nhiên; thủy sản; nông nghiệp - dự kiến hoàn thành đưa vào sử dụng vào năm 2023; hệ thống điều hành điện tử kết nối với 63 Sở Giáo dục và Đào tạo và hơn 300 trường Đại học, Cao đẳng trên cả nước.

- Nền tảng số nông nghiệp: Nền tảng Hệ thống truy xuất nguồn gốc nông sản được xây dựng, vận hành, liên thông với  nhiều địa phương trên cả nước (09/63 tỉnh, thành phố) và đang tiếp tục mở rộng. Hiện tại, đã có hơn 3.460 mã truy xuất sản phẩm nông sản thực phẩm được cập nhật.

* Nền tảng số cho người dân, doanh nghiệp:

Bộ Thông tin và Truyền thông đã triển khai Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi số bằng các nền tảng số Việt Nam, đã tiến hành thúc đẩy, tuyển chọn công bố trên 20 nền tảng số xuất sắc và đưa ra chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích các doanh nghiệp SME chuyển đổi lên môi trường số. Hết năm 2022 đã có trên 423.505 doanh nghiệp tiếp cận, tham gia; 61.612 doanh nghiệp đã sử dụng nền tảng số. Năm 2022, đã tiến hành đánh giá, tuyển chọn, công nhận 12 nền tảng số đạt tiêu chí xác định thí điểm nền tảng số Việt Nam có khả năng triển khai rộng khắp phục vụ người dân. Các nền tảng này đã được công bố, khuyến khích người dân sử dụng trên cổng thông tin congdanso.vn và triển khai các hoạt động bồi dưỡng kỹ năng số cho người dân thông qua mạng lưới tổ công nghệ số cộng đồng.

Khó khăn và thách thức lớn nhất của chuyển đổi số là gì?

Khó khăn lớn nhất của chuyển đổi số là thay đổi thói quen. Thách thức lớn nhất của chuyển đổi số là có nhận thức đúng.

Loài người đã quen với môi trường thực nhiều thế kỷ. Chuyển lên môi trường số là thay đổi thói quen. Thay đổi thói quen là việc khó. Thay đổi thói quen là việc lâu dài.

Thay đổi thói quen của một cá nhân đã khó. Thay đổi thói quen ở một tổ chức còn khó hơn và phụ thuộc chủ yếu vào quyết tâm của người đứng đầu.

Chúng ta quay trở lại thời điểm năm 2019, khi chuyển đổi số bắt đầu trở thành thuật ngữ được nhắc đến nhiều tại Việt Nam. Mặc dù Nghị quyết số 52/NQ-TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị đã đặt nhiệm vụ “đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức” lên thành nhiệm vụ đầu tiên, nhận thức về Chuyển đổi số vào lúc này nhưng vẫn chưa “chạm” đến nhiều lãnh đạo cấp cao nhất ở nhiều cơ quan chính phủ, tổ chức và địa phương… vốn là những người cần thấu hiểu tầm quan trọng của chuyển đổi số, cố gắng tìm hiểu để hiểu về chuyển đổi số, để từ đó xác định chuyển đổi số là nhiệm vụ quan trọng mình phải làm, phải dẫn dắt cả tổ chức của mình để thay đổi. Nhận thức của những người có trách nhiệm cao nhất ở các tổ chức sẽ lan tỏa đến nhận thức của các thành viên, lan tỏa đến mọi người trong xã hội.

Đơn cử một ví dụ có thật. Khi Chính phủ yêu cầu các bộ ngành và địa phương phải nhanh chóng xây dựng chiến lược và đề án chuyển đổi số của mình theo Chương trình chuyển đổi số quốc gia. Lãnh đạo của một Bộ nọ đã giao cho một Vụ chuẩn bị. Vụ lại giao cho một vài chuyên viên, viết được dăm trang với nhiều lỗi chính tả và gửi đi các đơn vị trong Bộ để lấy ý kiến. Lãnh đạo nhiều đơn vị lại giao cho nhân viên của mình góp ý. Rút cục, chiến lược và đề án được xây dựng theo đúng quy trình, nhưng không mang chút “hồn cốt” nào của Bộ về chuyển đổi số của chính mình, của ngành mình phụ trách.

Chuyển đổi số là chuyện chưa có tiền lệ, vì vậy, nhận thức đúng là việc khó. Nhận thức đúng về chuyển đổi số còn phải đặt trong bối cảnh cụ thể của một tổ chức. Chuyển đổi số là vấn đề nhận thức chứ không phải chỉ là vấn đề công nghệ, là chuyện dám làm hay không dám làm của người lãnh đạo.

Rủi ro lớn nhất của chuyển đổi số là gì?

Thông thường, các yếu tố thành công được xem xét kỹ lưỡng nhưng đánh giá rủi ro hiếm khi được thực hiện.

Các rủi ro có thể gồm việc những thay đổi mới bị mất kết nối với các hệ thống cũ vẫn cần duy trì hoạt động. Cũng có thể có sự phản kháng khi số lượng nhân viên bị thay đổi.

Xây dựng các công nghệ mới luôn có rủi ro kèm theo. Cũng có thể cần nhiều tháng trời để các thay đổi trở nên hiệu quả. Doanh nghiệp cần thời gian để điều chỉnh các quy trình, công cụ và quy trình mới.

Chuyển đổi số là việc chuyển đổi hoạt động của chính quyền của nền kinh tế và của xã hội lên môi trường số, nên rủi ro lớn nhất của chuyển đổi số là rủi ro của môi trường số.

  • Đó là các rủi ro về an toàn, an ninh mạng (bị tấn công, bị đánh cắp, bị sụp đổ hay gián đoạn).
  • Đó là rủi ro về quản trị dữ liệu và tính riêng tư.
  • Đó là rủi ro khi ở bước đầu của sự thay đổi chất lượng có thể suy giảm.

Rộng hơn, đối với người lao động đó còn là các rủi ro mất việc làm. Nói cho cùng, rủi ro lớn nhất là không dám chấp nhận rủi ro nào trong thay đổi. Mỗi tổ chức, mỗi doanh nghiệp cần phân tích để đánh giá những rủi ro mình có thể gặp phải. Có rủi ro sẽ có những cách khắc chế rủi ro.

Giải pháp cho những “mặt trái” của chuyển đổi số

Chuyển đổi số cũng giống như mọi thứ khác trên đời, luôn luôn có hai mặt, bởi vì công nghệ số là cội nguồn của những điều tốt đẹp lớn lao và cũng là nguồn gốc của những tác hại khủng khiếp tiềm tàng. Chúng ta có thể chưa hình dung hết được tất cả về những điều tốt đẹp và điều khủng khiếp đó ở thời điểm hiện nay.

Việc chuyển đổi lên môi trường số đòi hỏi mỗi người dân tự trang bị cho mình những kỹ năng số cần thiết. Tương tự môi trường thực, luôn có những đối tượng yếu thế trên môi trường số, là mục tiêu nhắm đến của các đối tượng xấu. Đó có thể là người già, trẻ em hay bất kỳ ai trong chúng ta.

Những hệ lụy đến từ môi trường số có thể kể ra như những chiêu trò lừa đảo, những vụ ăn hiếp, bắt nạt trên mạng, những trang của các nhóm hận thù và những trang của các nhóm khủng bố.

Và đối với những mặt trái của chuyển đổi số, dưới đây là những giải pháp tổng quan để giải quyết những mặt trái đó.

1. Đảm bảo sự công bằng: Một trong những mặt trái của chuyển đổi số là nguy cơ tăng độ chênh lệch xã hội. Để giải quyết vấn đề này, cần đảm bảo rằng chuyển đổi số không làm gia tăng khoảng cách kinh tế và xã hội. Các chính sách công bằng có thể bao gồm việc cung cấp truy cập dễ dàng đến công nghệ và đào tạo kỹ năng số cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người trong các cộng đồng có thu nhập thấp và những nhóm dân tộc thiểu số.

Một câu chuyện ví dụ thú vị về điều này: Câu chuyện về phổ cập wifi tại các xã tại huyện Tu Mơ Rông

Tu Mơ Rông là huyện nghèo, có 11 đơn vị hành chính cấp xã và 86 thôn, làng với số dân khoảng trên 28.000 người, trong đó, trên 95% là đồng bào dân tộc Xơ Đăng. Để giúp bà con đồng bào Xơ Đăng có điều kiện tiếp cận các dịch vụ, thông tin trong thời công nghệ 4.0, huyện Tu Mơ Rông đã có chủ trương tiến hành lắp đặt wifi miễn phí cho 100% thôn làng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn. Thực hiện chủ trương, các xã trên địa bàn đã triển khai lắp đặt phủ sóng mạng wifi miễn phí ở tất các thôn, làng. Sau khi khảo sát, bàn bạc thì hệ thống wifi công cộng được bà con lựa chọn lắp đặt tại nhà rông văn hóa của các thôn, làng. Bởi theo người dân, nhà rông văn hóa là “linh hồn” của làng, là nơi bà con thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hóa truyền thống, tổ chức hội họp, sinh hoạt văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao. Sau khi khảo sát, chọn địa điểm, các đơn vị viễn thông đã huy động lực lượng tập trung đẩy nhanh tiến độ lắp đặt hệ thống đường dây, mạng cáp quang, và lắp đặt bộ wifi. Đến nay, các đơn vị đã lắp đặt được 60 bộ wifi miễn phí tại nhà rông của 60 thôn làng trên địa bàn huyện. Các đơn vị viễn thông vẫn đang tiếp tục đẩy nhanh tiến độ lắp đặt, phấn đấu trong năm nay sẽ hoàn thành 100% (với 86 thôn làng) sẽ được lắp đặt wifi miễn phí tại nhà rông văn hóa.

Sau một thời gian sử dụng wifi miễn phí do huyện lắp đặt, lượng người đến nhà rông đông hơn, nhất là vào dịp buổi chiều, tối để luyện tập thể dục thể thao, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ. Đoàn viên thanh niên trong thôn đến nhà rông nhiều hơn so với trước. Ngoài thời gian chơi bóng chuyền, còn hay dùng điện thoại di động kết nối wifi truy cập internet để đọc báo xem các thông tin chính trị, thời sự, vào mạng xã hội.

Tại xã Đăk Hà, đến nay 9/9 thôn đã hoàn thành việc lắp đặt tại nhà rông văn hóa của thôn. Việc lắp đặp hệ thống wifi miễn phí không chỉ tạo được sự đồng thuận của bà con mà từ đó càng gắn kết thêm tình đoàn kết giữa bà con trong thôn, làng. Hệ thống wifi miễn phí được lắp đặt còn giúp thôn tổ chức tốt các buổi sinh hoạt cộng đồng. Khi đến họp hay học tập tại nhà rông, cán bộ và người dân có thể dễ dàng truy cập internet để tra cứu các văn bản pháp luật của nhà nước và kiến thức về kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi.

Có thể nói, sau một thời gian triển khai lắp đặt và sử dụng hệ thống wifi miễn phí tại các nhà rông đã cho thấy những hiệu quả tích cực, giúp người dân dễ dàng tiếp cận thông tin, từ đó từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đặc biệt, qua đó góp phần phát triển các dịch vụ công phục vụ nền hành chính điện tử trên địa bàn huyện.

2. Bảo vệ quyền riêng tư và an ninh: Chuyển đổi số tạo ra nhiều dữ liệu cá nhân và tăng nguy cơ vi phạm quyền riêng tư và an ninh thông tin. Để giải quyết vấn đề này, cần thiết lập các quy định và tiêu chuẩn về bảo vệ dữ liệu, đảm bảo rằng thông tin cá nhân được bảo mật và không bị lạm dụng. Các công ty cũng cần thực hiện các biện pháp bảo mật mạnh mẽ để ngăn chặn các cuộc tấn công mạng và rò rỉ dữ liệu.

Ví dụ về việc thực hiện giải pháp này, hai câu chuyện dưới đây là hai cách tiếp cận khác nhau trong việc bảo vệ người dân. Cách tiếp cận thứ nhất là sử dụng giải pháp cài đặt trực tiếp trên thiết bị người dùng để bảo vệ. Cách tiếp cận thứ hai là sử dụng giải pháp để bảo về một nhóm người dùng trong cùng một mạng như trong một gia đình, một trường học hay một hợp tác xã.

BKAV Mobile Security – Phần mềm bảo vệ thiết bị di động

Hiện nay, tin nhắn có nội dung quảng cáo rác, cuộc gọi có nội dung lừa đảo đã trở thành vấn nạn gây nhức nhối và ám ảnh đối với người dùng điện thoại di động. Chỉ cần một chiếc điện thoại đầy đủ chức năng nghe – gọi và không bị chặn cuộc gọi đến, bất kỳ ai cũng có thể trở thành nạn nhân của những cuộc gọi lừa đảo. Bên cạnh những người dân nâng cao cảnh giác thì vẫn có nhiều trường hợp thiếu tỉnh táo trở thành nạn nhân và sập bẫy lừa đảo khi nghe một cuộc điện thoại.

Vừa mới bắt đầu một ngày làm việc, một người dân đã phải tiếp nhận các cuộc gọi mời chào vay vốn tín dụng ưu đãi. Trước đó, người này còn nhận được các cuộc gọi giả danh cơ quan Nhà nước và thông báo trúng thưởng. Dù đã chặn rất nhiều đầu số lạ, đầu số có mã vùng từ nước ngoài, nhưng đâu lại vào đấy, người này vẫn tiếp tục bị làm phiền bởi các đầu số khác. Từ mời chào mua bán bất động sản, bảo hiểm, thông báo trúng thưởng đến giới thiệu việc nhẹ lương cao…

Đặc biệt có những cuộc gọi, tin nhắn nhằm lừa đảo, chiếm đoạt tài khoản ngân hàng. Tinh vi là những tin nhắn trên đều được gửi đến trong cùng mục với tin nhắn thật của ngân hàng, tên website cũng gần giống với tên miền của các ngân hàng. Chính điều này khiến cho nhiều người dùng không nghi ngờ mà cho rằng đây là tin nhắn do ngân hàng gửi. Khi khách hàng “click” vào đường link giả mạo, khách hàng được yêu cầu nhập thông tin tài khoản, mật khẩu, mã OTP... Ngay sau khi nhập thông tin, kẻ gian sẽ thực hiện được giao dịch chuyển tiền sang một tài khoản khác.

BKAV Mobile Security (BMS) là ứng dụng cài đặt trực tiếp trên thiết bị di động (điện thoại thông minh, máy tính bảng) của người dùng cuối. Khi người dùng nhận được cuộc gọi hay tin nhắn, BMS sẽ kiểm tra và tự động chặn và khuyến cáo người sử dụng khi các cuộc gọi không mong muốn, tin nhắn rác. Kết quả, BMS có thể chặn được gần như 100% các tin nhắn rác thường gặp.

          BMS là phần mềm được cung cấp miễn phí, bất kỳ người dân sử dụng điện thoại thông minh nào cũng có thể tải về và sử dụng. Đến nay đã có hơn 2 triệu người tin tưởng sử dụng.

SafeGate – Internet an toàn từ trường học tới gia đình

Trường học và gia đình là những môi trường chủ yếu để trẻ em tiếp cận với Internet. Việt Nam hiện có hơn 26 triệu hộ gia đình (với 15,7 triệu thuê bao Internet) và trên 26.500 trường học các cấp. Dù có vai trò quan trọng như vậy nhưng việc đảm bảo an toàn, an ninh mạng ở cả hai môi trường này chưa thực sự được quan tâm đúng, đủ và cũng như chưa có được giải pháp để quản lý, bảo vệ an toàn nhất là với những người yếu thế như trẻ em, người cao tuổi.

SafeGate là giải pháp quản lý, bảo vệ an toàn Internet theo mô hình An toàn thông tin như một dịch vụ – giải được bài toán cần giải pháp công nghệ quản lý, bảo vệ cho mọi kết nối Internet nhưng phải đơn giản, dễ dùng, thuận tiện và không tốn chi phí đầu tư.

Nhờ mô hình này, SafeGate có thể triển khai dễ dàng, nhanh chóng kể cả ở quy mô gia đình hay trường học. Chỉ trong vài giờ, đội ngũ kỹ thuật SafeGate đã triển khai, lắp đặt xong SafeGate School cho toàn bộ các trường tại Nghĩa Lộ (Yên Bái) hay 12 trường Trường Hermann Gmeiner (Làng trẻ SOS Việt Nam) trên toàn quốc để bảo vệ hơn 30.000 học sinh các cấp và hàng nghìn cán bộ, giáo viên đang sử dụng mạng Internet.

Ở bất kỳ nơi đâu, thầy/cô, bố/mẹ cũng quản lý, giám sát được các hoạt động nhờ báo cáo, cảnh báo an ninh, tình hình sử dụng Internet thông qua ứng dụng được cài đặt trên điện thoại di động. SafeGate bảo vệ các thiết bị được kết nối mạng khỏi những địa chỉ lừa đảo, mã độc; cảnh báo các virus tấn công, mã hóa dữ liệu; chặn lọc nội dung không phù hợp lứa tuổi các con; cung cấp khả năng giới hạn các ứng dụng được phép/không được phép sử dụng mà không cần cài đặt vào thiết bị cần quản lý.

Với triết lý đơn giản hoá quá trình sử dụng của người dùng, đội ngũ SafeGate thiết kế ứng dụng dễ dùng dưới dạng bật/tắt như công tắc đèn. Giải pháp SafeGate đang được hàng nghìn bậc cha mẹ có con em trong lứa tuổi học sinh tin dùng, tạo môi trường an toàn và đồng hành cùng con trên môi trường mạng.

Mô hình môi trường Internet an toàn tiếp tục được SafeGate triển khai xuống nhiều địa phương đặc biệt ở các địa bàn đang có các mô hình thương mại điện tử, nông nghiệp 4.0 phát triển mạnh để có thể đảm bảo Internet an toàn cho người dân. Với các gia đình hay cơ sở kinh doanh nhỏ, với khoảng 30 thiết bị kết nối Internet, chi phí bảo vệ thiết bị/tháng chỉ tương đương với một cốc trà đá.

3. Đào tạo và chuyển đổi kỹ năng: Một trong những thách thức lớn của chuyển đổi số là sự khác biệt trong kỹ năng và hiểu biết về công nghệ. Để giải quyết vấn đề này, các cơ quan nhà nước, các tổ chức giáo dục và doanh nghiệp cần cung cấp các khóa đào tạo và chương trình bồi dưỡng để giúp người dân và người lao động nắm bắt và sử dụng công nghệ số hiệu quả.

Câu chuyện về Tổ Công nghệ số cộng đồng là một ví dụ tiêu biểu. Trong năm 2022, các địa phương đã tích cực, nỗ lực thiết lập, đưa vào hoạt động các Tổ CNSCĐ, dần hình thành Mạng lưới triển khai, hỗ trợ thiết thực, hiệu quả công tác chuyển đổi số trên toàn quốc. Đến nay, 63/63 tỉnh, thành phố đã thành lập tổng cộng 76.000 Tổ CNSCĐ đến từng thôn, tổ dân phố, khu dân cư, khóm, ấp với hơn 356.000 thành viên, trong đó 52/63 tỉnh, thành phố hoàn thành triển khai Tổ CNSCĐ đến 100% cấp xã. Mỗi Tổ CNSCĐ có khoảng 04 đến 09 thành viên bao gồm Tổ trưởng các tổ dân phố, Công an khu vực, Ban chấp hành Đoàn cơ sở. Thanh niên (các chi đoàn, đoàn cơ sở) và Doanh nghiệp công nghệ số là lực lượng nòng cốt.

Trong năm 2023, hoạt động của Tổ CNSCĐ tiếp tục "đi từng ngõ, gõ từng nhà, hướng dẫn từng người” để thực hiện 05 nội dung cơ bản:

- Sử dụng dịch vụ công trực tuyến, thiết lập mỗi người dân một tài khoản dịch vụ công trực tuyến và một kho dữ liệu cá nhân trực tuyến để sử dụng dịch vụ công, chỉ phải cung cấp thông tin một lần cho cơ quan nhà nước.

- Mua sắm trực tuyến gắn với việc bảo vệ dữ liệu cá nhân, nhận diện các trang mua sắm trực tuyến tin cậy.

- Thanh toán trực tuyến an toàn, tiện lợi, tránh bị lừa đảo mất tiền, gắn với việc bảo vệ dữ liệu cá nhân.

- Tự bảo vệ mình trên không gian mạng, tránh trường hợp bị lừa đảo trực tuyến, bị đánh cắp dữ liệu cá nhân.

- Sử dụng nền tảng số khác tùy đặc thù của địa phương.

Bộ Thông tin và Truyền thông tiếp tục cung cấp các khóa học về kỹ nawngh cho thành viên Tổ CNSCĐ trên Nền tảng học trực tuyến mở đại trà và triển khai nền tảng hỗ trợ thành viên Tổ CNSCĐ cộng tác, làm việc.

Việc triển khai Tổ CNSCĐ là một kết quả đặc biệt đột phá. Thông qua Tổ CNSCĐ, các chủ trương, chính sách và chỉ đạo từ Trung ương tới địa phương mà trực tiếp là người dân được triển khai nhanh chóng, hiệu quả và kịp thời. Tổ CNSCĐ mang tính toàn dân, là đặc trưng Việt Nam, là điểm khác biệt của Việt Nam, là tiền đề cho những kết quả đột phát về chuyển đổi số trong tương lai.

4. Quản lý rủi ro và đạo đức công nghệ:

Chuyển đổi số đi đôi với các rủi ro như thất nghiệp do tự động hóa, ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần và xã hội, cũng như việc sử dụng công nghệ một cách không đạo đức. Để đối phó với những mặt trái này, cần có chính sách và quy định để quản lý rủi ro và đảm bảo việc sử dụng công nghệ một cách đạo đức và có trách nhiệm. Các tổ chức, doanh nghiệp cũng nên thực hiện các nguyên tắc đạo đức công nghệ trong quá trình phát triển và triển khai sản phẩm và dịch vụ của họ.

Có thể dễ dàng thấy rằng công việc của hầu hết người lao động tới đây đều sẽ chuyển sang môi trường số và mọi người nhiều hay ít đều sẽ làm việc với những con số trên máy tính và mạng. Dễ thấy nhất là sự trao đổi thông tin trực tuyến của mọi người trong một tổ chức cũng như trao đổi với bên ngoài để thực hiện công việc.

Công nghệ số yêu cầu người lao động phải có ý thức và kỹ năng thu thập dữ liệu; phải học để dùng được các nền tảng, các công cụ phân tích xử lý dữ liệu; phải học để biết cách tham gia giữ gìn an toàn, an ninh trên mạng; phải hiểu biết tác động lan truyền của những điều hay dở nhanh như thế nào và rất nhiều thay đổi khác nữa vì công nghệ số liên tục phát triển, các nền tảng ngày càng được dùng rộng rãi trong công việc của mọi ngành nghề.

Các chuyên gia trong Chương trình nghiên cứu về tác động của công nghệ số trong tương lai tại Đại học Oxford đã phân tích và đưa ra bảng xếp hạng định lượng 702 ngành nghề về khả năng tự động hóa và thay thế bằng máy tính.

Dưới đây là 10 nghề bị dự báo chịu ảnh hưởng nhiều nhất trong kỷ nguyên số:

- Nhân viên tiếp thị từ xa (telemarketers)

- Nhân viên kỹ thuật thư viện.

- Người định giá bảo hiểm.

- Trọng tài thể thao.

- Thư ký pháp luật

- Chủ khách sạn, quán ăn, quán cà phê.

- Môi giới bất động sản.

- Nhà thầu lao động nông nghiệp

- Thư ký và trợ lý hành chính ngành luật, ngành y

- Nhân viên chuyển phát nhanh.
 

 

Tài liệu từ nguồn chuyendoiso.mobiedu.vn
Các tin khác
Xem tin theo ngày  

Chung nhan Tin Nhiem Mang

Thống kê truy cập
Truy cập tổng 5.004
Truy cập hiện tại 10