Tìm kiếm tin tức
Liên kết website
Sở, Ban, Ngành
UBND Huyện, Thị xã, Thành phố
Chuyển đổi số như thế nào?
Ngày cập nhật 18/07/2024

Chuyển đổi số khi nào?

Chuyển đổi số trước khi khủng hoảng hay khủng hoảng rồi mới chuyển đổi số?

 

Dưới đây là 2 câu chuyện của Thời báo New York Times của Mỹ và Tờ Độc lập của Vương quốc Anh để trả lời cho câu hỏi trên.

Trong bối cảnh báo chí toàn thế giới gặp khó khăn khi nguồn thu quảng cáo liên tục sụt giảm, thì tờ Thời báo New York (New York Times) tại Mỹ lại ghi nhận dấu mốc doanh thu ấn tượng. Quý IV/2019, mảng kinh doanh số của tòa soạn này đã vượt ngưỡng 800 triệu USD, trong đó có tới 420 triệu USD đến từ độc giả trả phí, cao hơn nguồn thu từ mảng kinh doanh truyền thống là quảng cáo. Đến hết năm 2020, số độc giả trả phí cho các ấn phẩm in và ấn phẩm số của The New York Times đã đạt hơn 7,5 triệu. Trong đó, đăng ký cho các ấn phẩm số đã vượt 5 triệu lượt, chiếm 67%(1).

Thành công của New York Times không đến một cách ngẫu nhiên. Những lãnh đạo tòa soạn từ sớm đã nhìn thấy ở Internet tiềm năng to lớn trong việc phát huy giá trị cốt lõi của tòa soạn là mang đến những câu chuyện theo tiêu chuẩn báo chí cao nhất đến với độc giả toàn thế giới. Sau nhiều năm kiên trì đi theo con đường riêng với trọng tâm ưu tiên phát triển doanh thu số, những nỗ lực của New York Times đã được đền đáp khi tòa soạn này hiện duy trì vị trí tòa soạn danh giá nhất với 120 giải Pulitzer và đồng thời cũng là tòa soạn có tỉ lệ phóng viên biết lập trình cao nhất trong làng báo.

Được thành lập vào năm 1986 bởi ba nhà báo, tờ Độc lập (The Independent) của nước Anh đã trở thành ngôi nhà của những nhà báo nổi tiếng như Robert Fisk, một phóng viên lâu năm ở Trung Đông và Andrew Marr, một phát thanh viên nổi tiếng và là một sử gia. Một trong những người tham gia ban đầu còn có nhà văn Helen Fielding, là tác giả của cuốn sách bán chạy Nhật ký tiểu thư Jones, viết cho chuyên mục ẩn danh của tờ Độc lập.

Vào giai đoạn đỉnh cao, tờ Độc lập đã từng xuất bản 400.000 bản mỗi ngày, rồi sau đó, cùng với sự phát triển của Internet, số lượng ấn bản giảm xuống chỉ còn 40.000 bản mỗi ngày vào năm 2015 và tuyên bố dừng ấn phẩm vào năm 2016.

Khi xuất hiện và bước vào giai đoạn đỉnh cao, tờ Độc lập được coi là tờ báo tiên phong trong lĩnh vực báo chí. Và rồi khi dừng lại, tờ Độc lập được coi là tờ báo bị đóng cửa bởi tác động của Internet.

Vậy cách tốt nhất để dự đoán tương lai là gì?

Chuyển đổi số là tạo ra cái mới, là cái chưa có tiền lệ. Kỷ nguyên chuyển đổi số là kỷ nguyên của những điều không thể trở thành có thể và ngược lại. Và cách tốt nhất để dự đoán tương lai là chủ động tạo ra nó.

Chuyển đổi số quan trọng nhất là chuyển đổi tư duy, nhận thức. Điều đó có thể làm ngay lập tức, vì chỉ phụ thuộc vào chính mỗi người chúng ta.

Chuyển đổi số những gì?

Việc chọn cái gì để chuyển đổi trước thì có thể theo thứ tự sau:

- Cái nào bắt buộc phải làm, không hối tiếc khi chuyển đổi thì làm trước. Ví dụ, cái bắt buộc phải làm như học trực tuyến trong thời gian giãn cách xã hội, cái không hối tiếc là cái đang khó khăn nhất của tổ chức mà chưa có cách giải quyết.

- Tiếp đến là cái nào lên môi trường số thì hiệu quả vượt trội, ví dụ, cơ quan nhà nước lựa chọn chuyển đổi số trong việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến trước vì nó đem lại hiệu quả tức thì cho người dân, doanh nghiệp.

- Và sau đến là cái nào lên môi trường số thì có thể tạo ra các dịch vụ, giá trị mới, ví dụ sàn giao dịch thương mại điện tử không chỉ bán nải chuối như trước đây mà còn có thể bán trước cả cây chuối trong vườn của người nông dân bằng cách gắn cảm biến IoT, cho phép người mua lựa chọn cây từ khi còn bé, theo dõi quá trình chăm sóc, đến lúc thu hoạch quả.

Nói cách khác, chọn việc gì để làm trước thì chọn cái gì thấy khó nhất, hay gọi là “nỗi đau” lớn nhất, vấn đề gì tồn tại lâu rồi, còn gọi là bài toán thiên niên kỷ, hoặc vấn đề gì đang nóng nhất, người dân đang bức xúc nhất thì mang ra để xem công nghệ số có giải quyết được không.

Dưới đây là một số câu hỏi đặt ra khi thực hiện chuyển đổi số.

Thứ nhất là tiến hành các thử nghiệm ở quy mô nhỏ có được không?

Một số doanh nghiệp lựa chọn chuyển đổi số bằng việc tiến hành các thử nghiệm quy mô nhỏ mang tính ngắn hạn trước, theo cách từ dưới lên. Các thử nghiệm thành công có thể giúp khẳng định các ý tưởng mới, khám phá các xu hướng tương lai, thay đổi nhận thức.

Tuy nhiên, làm nhiều thử nghiệm mà không có chiến lược và phương hướng sẽ tạo ảo tưởng thành công trong ngắn hạn mà không tạo được thay đổi lâu dài. Các ý tưởng nở rộ, thử nghiệm trên quy mô nhỏ, nhưng không được hiện thực hóa trên quy mô lớn sẽ gây lãng phí thời gian và nguồn lực.

Thứ hai là ứng dụng công nghệ số để giảm chi phí có được không?

Tăng năng suất và giảm chi phí nên là các mục tiêu trong mọi tổ chức, doanh nghiệp. Nhưng nếu chỉ hướng đến mục tiêu đó, nghĩa là đang chấp nhận sẽ không để công nghệ thay đổi tận gốc tổ chức, doanh nghiệp mình. Chẳng hạn, nếu chấp nhận như vậy thì các hãng taxi truyền thống vẫn nên hoạt động như cũ và sẽ không bị ảnh hưởng nhiều từ các hãng cung cấp nền tảng như Grab hay Uber. Tuy nhiên, thực tế lại không phải như vậy.

Thứ ba là làm nhanh, làm nhiều là tốt?

Làm nhanh, làm nhiều không đồng nghĩa với hiệu quả. Nhà lãnh đạo chuyển đổi số cần một cái đầu lạnh để bình tĩnh tìm ra những khó khăn của tổ chức, thấu hiểu mô hình hoạt động/kinh doanh, bối cảnh cũng như tâm lý người dân/khách hàng khi cân nhắc thực hiện chuyển đổi số.

Chuyển đổi số có thể bắt đầu từ những việc nhỏ, nhưng tư duy định hướng phải là tư duy đổi mới tổng thể và toàn diện.

Xây dựng chiến lược chuyển đổi số như thế nào?

Để thực hiện chuyển đổi số, có thể tham khảo một lộ trình gợi ý gồm ba bước chung nhất như sau:

Bước 1: Có nhận thức và tư duy đúng về chuyển đổi số. Với một tổ chức, nhận thức của lãnh đạo cao nhất là điều kiện tiên quyết, để từ đó truyền nhận thức, cảm hứng, khát vọng và quyết tâm thay đổi tới các thành viên.

Bước 2: Xây dựng chiến lược và kế hoạch hành động. Xác định trạng thái hiện tại và trạng thái cần đến để định rõ mục tiêu, gồm cả việc xác định mô hình hoạt động, kinh doanh mới trong môi trường số, xây dựng kế hoạch hành động với các giai đoạn hợp lý, nội dung cụ thể.

Bước 3: Xác định công nghệ số chủ yếu trong lĩnh vực hoạt động cũng như các nền tảng cần có để hỗ trợ việc chuyển đổi. Từ đó, xây dựng năng lực số, gồm đào tạo nhân lực số, xây dựng thói quen, hình thành văn hóa đổi mới với mô hình hoạt động mới và thực hiện chuyển đổi.

Chuyển đổi số là việc của chính mỗi tổ chức. Và việc này cần phải xuất phát từ nhận thức, từ quyết tâm và mức độ nắm rõ tình hình của tổ chức. Mỗi tổ chức, cá nhân là khác nhau, do đó, cần có những chiến lược khác nhau. Chiến lược chuyển đổi số không phải là một bản chiến lược ứng dụng công nghệ số. Chiến lược chuyển đổi số không phải là một bản kế hoạch ngắn hạn, cũng không phải là một bản kế hoạch dài hạn. Một bản chiến lược phù hợp thường hoạch định cho giai đoạn từ 3-5 năm.

Chiến lược chuyển đổi số do người đứng đầu chỉ đạo xây dựng và phải lan tỏa, thấm nhuần tới từng thành viên của tổ chức. Chiến lược chuyển đổi số bắt đầu từ tầm nhìn của người đứng đầu, nhưng quá trình thực thi cần không ngừng đo lường, kiểm nghiệm thực tế xem điều gì đang đi đúng hướng và điều gì chưa, sau đó nhanh chóng điều chỉnh theo thực tế.

Cách tiếp cận chuyển đổi số của Việt Nam

Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam định hướng phát triển kinh tế - xã hội dựa trên khoa học công nghệ, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo, coi chuyển đổi số là động lực tăng trưởng mới, giúp cho Việt Nam đạt mục tiêu là nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.

Chuyển đổi số của Việt Nam là chuyển đổi số toàn diện trên 3 trụ cột là Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số.

Chính phủ số thì chuyển mọi hoạt động của Chính phủ trên môi trường số và hoạt động dựa nhiều trên dữ liệu và cung cấp thêm các dịch vụ mới. Khác biệt cốt lõi của Chính phủ số đó là sử dụng dữ liệu để ra quyết định và coi dữ liệu như là một loại tài nguyên mới, đó là chuyển đổi về cách thức ra quyết định của cơ quan chính quyền dựa trên các báo cáo bản giấy sang dựa trên dữ liệu phân tích, định lượng và tổng hợp từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, đó là sự kết nối và chia sẻ dữ liệu của các cơ quan nhà nước để người dân chỉ cần cung cấp thông tin một lần cho cơ quan nhà nước. Các doanh nghiệp cộng đồng có thể sử dụng dữ liệu này để cung cấp thêm các dịch vụ mới.

Kinh tế số là động lực tăng trưởng mới, là sự chuyển đổi từ 80% kinh tế số dựa trên ICT thành 80% là dựa trên kinh tế số ngành, là sự nhấn mạnh vai trò của các nền tảng số Việt Nam, là sự thay đổi thể chế để chấp nhận các mô hình kinh doanh mới.

Xã hội số là xã hội tích hợp công nghệ số một cách tự nhiên và mặc định vào mọi mặt đời sống, người dân được kết nối, tương tác và thành thạo kỹ năng số để sử dụng các dịch vụ số, từ đó, hình thành các mối quan hệ mới trong môi trường số, hình thành thói quen số và văn hoá số .

Sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về chủ động tham gia cuộc CMCN lần thứ tư, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình chuyển đổi số quốc gia, Chiến lược chính phủ số, Chiến lược kinh tế số và xã hội số và Đề án nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia. Các bộ ngành, địa phương căn cứ vào chương trình, chiến lược quốc gia để ban hành các nghị quyết, chương trình chuyển đổi số của mình. Đây chính là Đảng viên đi trước, làng nước theo sau, chính là chủ trương, quyết tâm chính trị đi trước, kế hoạch và hành động cụ thể đi sau.

Chuyển đổi số là cuộc cách mạng toàn dân. Người dân là trung tâm, người dân là thị trường. Thị trường là gốc của tăng trưởng. Đưa người dân lên môi trường mạng bằng việc sử dụng các nền tảng số chính là chuyển đổi số. Các tổ công nghệ số cộng đồng tại các thôn, xóm, bản, làng, với hạt nhân là thanh niên, sẽ lời giải cho phong trào toàn dân này.

Nhà nước đầu tư một số nền tảng công nghệ dùng chung miễn phí để thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ và siêu nhỏ. Các doanh nghiệp nhỏ này rất linh hoạt, phản ứng nhanh, tạo ra sự năng động cho nền kinh tế nhưng lại không đủ ngân sách cho chuyển đổi số. Nhà nước hoàn toàn có thể hỗ trợ mỗi doanh nghiệp 1 triệu đồng, nhưng 1 triệu đồng này không giúp họ chuyển đổi số được. Với 1 triệu doanh nghiệp thì số tiền là 1.000 tỷ đồng, là không hề nhỏ. Nếu nhà nước đầu tư 1.000 tỷ đồng này để phát triển một nền tảng chuyển đổi số dùng chung cho các doanh nghiệp thì mỗi doanh nghiệp lại như được hỗ trợ 1.000 tỷ đồng, là rất lớn và quá đủ cho chuyển đổi số một doanh nghiệp. Và đây chính là ưu thế căn bản của các nền tảng số dùng chung.

Dữ liệu là tài nguyên quốc gia. Chuyển đổi số sẽ tạo ra nhiều dữ liệu. Xử lý dữ liệu này bằng công nghệ số, bằng tri thức sẽ sinh ra các giá trị mới cho nền kinh tế. Một chiến lược quốc gia về dữ liệu là rất cần thiết và Việt Nam chắc chắn sẽ ban hành chiến lược dữ liệu trong thời gian sớm nhất.

Phát triển nền tảng số Việt Nam. Nền tảng số Việt Nam thu thập, lưu trữ và xử lý dữ liệu tại Việt Nam, đảm bảo an toàn cho người dân Việt Nam. Các nền tảng số này cũng chính giải pháp đột phá để chuyển đổi số nhanh và bền vững. Mỗi một nhu cầu quốc gia sẽ được đáp ứng bởi một nền tảng số dùng chung. Chuyển đổi số chính là đưa người dân lên các nền tảng số này.

Về phát triển nhân lực số thì việc đầu tiên là cho phép triển khai đại học số. Đại học số thì không cần nhiều giảng đường, giáo viên. Đại học số thì sinh viên vẫn ở nhà, vẫn cày cấy giúp bố mẹ và vẫn học đại học. Đại học số thì nhiều người có thể học đại học. Đại học số có thể giúp giải quyết bài toán thiếu nhân lực số. Đào tạo lại, đào tạo nâng cao về kỹ năng số thông qua các nền tảng học trực tuyến mở đại trà MOOCs. Đây là các nền tảng đào tạo số chất lượng cao, người học tự học, tự thi và được cấp chứng chỉ trên nền tảng.

Đảm bảo an toàn, an ninh mạng là điều kiện tiên quyết. Việt Nam đặt mục tiêu là cường quốc về an ninh mạng. Việt Nam muốn thịnh vượng thì phải thịnh vượng trên môi trường số. Mà môi trường số thì không an toàn, bởi vậy cường quốc về an ninh mạng chính là để bảo vệ sự thịnh vượng đó.

Chuyển đổi số để ưu tiên giải quyết các bài toán lớn của đất nước, đó là bài toán về khoảng cách giữa nông thôn và thành thị thông qua các nền tảng số; bài toán nghèo của nông dân bằng cách tạo thương hiệu sản phẩm và hướng dẫn sử dụng các nền tảng thương mại điện tử nông sản; bài toán về nâng cao chất lượng công việc của cán bộ, công chức bằng nền tảng làm việc số và trợ lý ảo; bài toán về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực bằng hệ thống giám sát trực tuyến toàn diện.

Trong môi trường sống mới cần có văn hóa mới. Môi trường số thì có văn hóa số. Trong môi trường số, một cá nhân có thể có ảnh hưởng toàn quốc, toàn cầu, do vậy cá nhân phải có trách nhiệm cao, tức là văn hóa số. Xây dựng các bộ quy tắc ứng xử trên môi trường mạng như bước đầu để xây dựng văn hóa số. Phải đưa giáo dục kỹ năng số, pháp luật số, văn hóa số vào nhà trường.

Dưới đây là một số câu chuyện thực tế về chuyển đổi số theo cách tiếp cận và cách làm của riêng Việt Nam

Câu chuyện thứ nhất về chuyển đổi số trong doanh nghiệp sản xuất của Rạng Đông

Rạng Đông là câu chuyện điển hình của việc kế thừa quá khứ và mở ra tương lai.

Rạng Đông cắt băng khánh thành vào năm 1961, là một doanh nghiệp sản xuất công nghiệp truyền thống - tiền Internet. Nhà máy Bóng đèn Phích nước Rạng Đông là một trong 13 nhà máy đầu tiên được Bác Hồ và Chính phủ quyết định xây dựng ở Miền Bắc và đã có lịch sử trên 60 năm. Tinh thần Rạng Đông có Bác Hồ.

Thách thức sống còn của Rạng Đông là theo kịp bước tiếp của thời đại để phát triển.

Ngày 28/8/2019, Rạng Đông đã trải qua một biến cố lịch sử. Sự cố hỏa hoạn ngoài ý muốn đã thiêu rụi đi của Rạng Đông rất nhiều tài sản.

Rạng Đông khi gặp phải biến cố hỏa hoạn tưởng chừng như đã lụi tàn nhưng biến cố này lại tạo nên sức ép để Rạng Đông bắt buộc phải nhanh chóng tìm kiếm một phương thức phát triển mới, đó chính là chuyển đổi số.

Nếu như năm 1990, sau khi Đất nước thực hiện công cuộc Đổi mới, việc tái cấu trúc Rạng Động có thể coi là cuộc Đổi mới lần thứ nhất của Rạng Đông, thì việc Ban Lãnh đạo Công ty đã thông qua Chiến lược Chuyển đổi số Công ty giai đoạn 2020 -2025, tầm nhìn 2030 vào ngày 02/12/2019 có thể coi cuộc Đổi mới lần thứ II của Rạng Đông.

Rạng Đông được lãnh đạo bởi những con người lớn tuổi, những con người của thế hệ trước khi có Internet, nhưng tư duy rất trẻ, rất mở, nhanh chóng nhận thức được ý nghĩa và vai trò của chuyển đổi số. Trong biến cố thì lại càng quyết tâm sử dụng chuyển đổi số như là một phương thức phát triển mới.

Nhờ vào chuyển đổi số, trong giai đoạn 2019 - 2023, Rạng Đông thiết lập nên một mặt bằng tăng trưởng mới, trung bình 15% - 20% một năm, cao gấp đôi so với giai đoạn 2015 - 2019. Tổng doanh thu năm 2023 ước đạt 9000 tỷ đồng, cao gấp 2,5 lần so với năm 2019.

Hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ của Rạng Đông được mở rộng, không chỉ giới hạn ở bóng đèn, phích nước, mà thông minh hóa toàn bộ quá trình chiếu sáng nhờ vào kết nối Internet và dữ liệu. Một số sản phẩm tiêu biểu áp dụng vào đời sống mang lại hiệu quả vượt trội như chiếu sáng nông nghiệp với các vườn Thanh Long tại tỉnh Bình Thuận, chiếu sáng ngư nghiệp – tàu cá hay chiếu sáng Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn.

Công nghiệp hoá trước đây chủ yếu là mua máy móc hiện đại mà ít chú trọng tới thay đổi cách thức vận hành, ít chú trọng tới sử dụng dữ liệu.

Công nghiệp hoá ngày nay có nội hàm là chuyển đổi số các nhà máy, xí nghiệp sản xuất, là đưa toàn bộ hoạt động của nhà máy, xí nghiệp sản xuất lên môi trường số, ứng dụng công nghệ số vào mọi khâu của quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.

Đây chính là thông minh hoá lĩnh vực sản xuất.

Rạng Đông là câu chuyện điển hình cho những người lớn tuổi nhưng khao khát vươn lên, khao khát thay đổi số phận bản thân, khao khát thay đổi quốc gia, trẻ trung và đầy năng lượng.

Chúng ta kết lại câu chuyện của Rạng Đông với câu nói bất hủ của Chủ tịch Rạng Đông, đó là “Khi bạn muốn đóng một con tàu, đừng bắt đầu bằng việc đi tìm gỗ, cưa, những tấm ván và phân công nhiệm vụ, mà hãy định hướng bằng trái tim của con người khao khát biển cả mênh mông và vô tận”.

Câu chuyện thứ hai là về cách tiếp cận toàn dân và toàn diện của Việt Nam trong tổ chức triển khai chuyển đổi số, đó là câu chuyện về Tổ công nghệ số cộng đồng.

Nhân vật điển hình thứ nhất của câu chuyện này là cô Nông Thị Thuận, giáo viên đã về hưu tham gia Tổ CNSCĐ tỉnh Bình Phước.

Khi đã 76 tuổi, Bác Hồ vẫn nói: “Tự tôi, ngày nào cũng học. Nếu có điều gì chưa biết, hãy tìm hiểu, học hỏi và học từ những người xung quanh, từ những gì đã có sẵn, được chia sẻ từ những địa chỉ tin cậy. Nếu có điều gì đã biết, đã tâm đắc, hãy hướng dẫn, chia sẻ với những người xung quanh, Người trẻ hướng dẫn người già và trẻ em. Người biết nhiều hướng dẫn người biết ít, người biết ít hướng dẫn người chưa biết”.

Ở độ tuổi 67 cô Nông Thị Thuận là Tổ trưởng Tổ CNSCĐ của Ấp 3, xã Đồng Tiến, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước.

Có hơn 30 năm công tác trong ngành giáo dục, với nghiệp vụ sư phạm của mình đã được cô Thuận áp dụng trong quá trình hỗ trợ, hướng dẫn người dân sử dụng DVCTT.

Cô chia sẻ: Có một số người dân không biết chữ thì cô hướng dẫn bà con nhìn vào các biểu tượng để ghi nhớ thì sẽ dễ hơn. Việc này phải tỉ mỉ, kiên nhẫn như dạy những học trò của mình thì bà con mới hiểu, mới làm được.

Hình ảnh tận tụy, nhiệt huyết của cô Nông Thị Thuận chính là một tấm gương tiêu biểu để truyền cảm hứng và cổ vũ cộng đồng thực hiện. Chuyển đổi số không khó nếu như chúng ta không chịu thay đổi. Người lớn tuổi cũng có thể chuyển đổi số nếu như được tập huấn. Người không biết chữ cũng có thể tham gia chuyển đổi số khi họ được hướng dẫn, hỗ trợ. Mỗi người dân cần không ngừng học hỏi, không ngừng nâng cao nhận thức, mỗi ngày mỗi người tự học cho mình những điều mới.

Nhân vật điển hình thứ hai trong câu chuyện Tổ công nghệ số cộng đồng là anh Đinh Văn Hin, người dân tộc Cơ Tu – Tổ trưởng Tổ hỗ trợ điểm dịch vụ công trực tuyến thôn Tà Lang, xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng.

Anh Đinh Văn Hin là Trưởng ban Nhân dân kiêm Tổ trưởng tổ Đề án 06, Tổ trưởng Tổ hỗ trợ điểm dịch vụ công trực tuyến của thôn Tà Lang, xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng. Anh là một người con của dân tộc Cơ Tu – dân tộc thiểu số chiếm khoảng 0,08% dân số cả nước.

Trong quá trình triển khai các hoạt động hỗ trợ bà con, thực hiện sứ mệnh “đi từng ngõ, gõ từng nhà, hướng dẫn từng người” cũng có không ít những khó khăn, thách thức đặt ra có thể kể đến như người dân không có thời gian do công việc cá nhân bận rộn, nhiều bà con chưa hiểu biết về chính sách, về công nghệ, nhiều lần đến nhà nhưng không gặp ai, điện thoại của bà con đồng bào chưa hiện đại, chức năng còn thấp nên không thể tải các ứng dụng, chức năng…Trước những vấn đề đặt ra như vậy, anh Hin và các thành viên Tổ CNSCĐ đã kiên trì và quyết tâm thực hiện nhiệm vụ vì mục tiêu chung là phổ cập số cộng đồng.

Tổ CNSCĐ thôn đã thực hiện phát thanh vận động bà con đến nhà văn hóa thôn để tập trung hướng dẫn. Xây dựng group trên facebook, thường xuyên đăng tải các thông báo, thông tin để bà con nắm bắt được. Với những hộ gia đình đến hỗ trợ nhưng họ không có nhà thì Tổ sẽ tiếp tục đến lần tiếp theo, phân công thành viên ở gần gia đình họ để hỗ trợ, hướng dẫn. Với vấn đề về điện thoại, anh Hin cho biết anh đã hỗ trợ bà con sử dụng điện thoại của mình và các thành viên trong Tổ có chức năng cao hơn để đăng ký tài khoản, khai thông tin và khi cần sử dụng các dịch vụ thì sẽ tiếp tục hỗ trợ bà con thực hiện.

Chia sẻ về điều mà mình tâm huyết nhất khi thực hiện sứ mệnh này, anh Hin xúc động nói về việc mình nhìn thấy đồng bào của mình được tiếp cận với những công nghệ hiện đại, sử dụng dịch vụ công trực tuyến giúp bà con đỡ vất vả hơn trong xử lý các thủ tục hành chính. Và hơn cả là anh thấy được nghĩa đồng bào rất lớn lao khi mình được hỗ trợ bà con. Những người cùng dân tộc, là đồng bào của nhau, có cùng ngôn ngữ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, văn minh hơn mỗi ngày, điều đó thật sự rất trân quý.

Điển hình thứ 3 là xây dựng xã hội số 4.0 tại Đồng Tháp thông qua hoạt động của Tổ Thanh niên chuyển đổi số.

Từ tháng 5/2022, Tỉnh Đoàn Đồng Tháp đã phối hợp chặt chẽ với Sở Thông tin và Truyền thông để triển khai Chương trình phối hợp hoạt động trong giai đoạn 2022-2026, thành lập Tổ Tham vấn chuyển đổi số cấp Tỉnh, đồng thời triển khai mô hình Tổ CNSCĐ tại cơ sở.

Tổ CNSCĐ, với sự tham gia của các cán bộ, đoàn viên và thanh niên, đã được hình thành với mục tiêu chính là tạo lực lượng huy động sức mạnh toàn dân, gần gũi và sát cánh cùng dân, đồng thời đóng vai trò quan trọng như một cánh tay nối dài của Ban Chỉ đạo chuyển đổi số từ tỉnh đến cấp huyện, xã, phường, thị trấn và các địa phương khác. Việc triển khai này đổi mới và sáng tạo bằng cách xây dựng Tổ Thanh niên chuyển đổi số. Tổ này với 100% thành viên là thanh niên, đóng góp tích cực vào việc thúc đẩy sự hiểu biết về công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong cộng đồng. Tổ Thanh niên chuyển đổi số đã triển khai nhiều hoạt động thực tiễn, hỗ trợ người dân sử dụng các ứng dụng công nghệ số, ứng dụng trực tiếp tại Bộ phận Một cửa, cũng như tại các buổi tập trung của chi bộ, hội quán, hợp tác xã và các sự kiện tương tự.

Trong tình hình thực tế, Tỉnh Đoàn đã tự nhận thấy rằng sự hỗ trợ và tương tác thường xuyên với các thành viên là cách quan trọng để đảm bảo hiệu quả trong triển khai nhiệm vụ. Đồng chí Đoàn Nguyễn Đăng Khoa, Phó trưởng ban Phong trào, Phụ trách nội dung Chuyển đổi số Tỉnh Đoàn Đồng Tháp, đã nêu rõ vai trò của công tác truyền thông trong việc thúc đẩy tinh thần và động lực cho các bạn thanh niên trong việc triển khai chuyển đổi số. Việc sử dụng truyền thông để chia sẻ thông tin về hoạt động của Tổ Thanh niên chuyển đổi số đã tạo ra tác động tích cực đến tâm lý của các bạn, giúp họ cảm nhận giá trị của công việc mình đang thực hiện và tạo ra động lực mạnh mẽ hơn để hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc.

Câu chuyện thứ ba trong chuyển đổi số theo cách của Việt Nam đó là việc triển khai dịch vụ công trực tuyến.

Thứ nhất là dịch vụ Đăng ký dự thi tốt nghiệp trung học phổ thông và xét tuyển trình độ đại học, trình độ cao đẳng của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Trước đây: Không xác thực được thông tin cá nhân của hơn 1 triệu thí sinh dự thi.

Hiện tại: Hiện tại đã xác thực được các trường thông tin của thí sinh dự thi, gồm: Họ và tên, ngày/tháng/năm sinh, số CCCD và giới tính.

Trước đây: Hơn 1 triệu học sinh tham dự thi THPT và hơn 660 nghìn thí sinh đăng ký xét tuyển hằng năm phải nhập tay, các thông tin cá nhân, học bạ học sinh điểm xét tuyển, ngành...thông qua phiếu xét tuyển => mất nhiều thời gian nhập liệu, nhân lực thực hiện, dễ sai sót thông tin, tốn kém chi phí.

Hiện tại: Hơn 1 triệu thí sinh đăng ký thi, đăng ký xét tốt nghiệp và hơn 660 nghìn thí sinh đăng ký xét tuyển bằng hình thức trực tuyến. Trong đó, các thông tin cơ bản đã được đồng bộ và tải tự động lên form phiếu đăng ký, học sinh chỉ cần chỉnh sửa lại thông tin, mà không cần nhập thủ công các thông tin đã có trong CSDL ngành.

Trước đây: Thí sinh đến cơ sở giáo dục thực hiện đăng ký theo hướng dẫn của bộ phận tuyển sinh tại các cơ sở giáo dục và thông qua phiếu đăng ký xét tuyển, sau đó gửi thông tin về hệ thống của Bộ.

Hiện tại: Thí sinh thực hiện đăng ký tại mọi nơi có kết nối Internet, việc đăng ký rất thuận lợi và giảm chi phí đi lại.

Trước đây: Thí sinh thực hiện thanh toán lệ phí xét tuyển theo phiếu đăng ký xét tuyển tại các điểm tiếp nhận hồ sơ (trường THPT) hoặc các cơ sở giáo dục đại học.

Hiện tại: Thí sinh thực hiện thanh toán lệ phí xét tuyển qua tài khoản được cấp thông qua các Nền tảng thanh toán cung cấp trên Cổng DVCQG được tích hợp vào Hệ thống Hỗ trợ tuyển sinh của Bộ.

Trước đây: Các cơ sở giáo dục đại học tổ chức xét tuyển và thông báo kết quả trúng tuyển tới thí sinh, thí sinh phải nộp các hồ sơ cần thiết để xác định nhập học tại cơ sở giáo dục đại học.

Hiện tại: Hệ thống Hỗ trợ tuyển sinh của Bộ thực hiện xét tuyển tự động (lọc ảo), kết quả được thông báo đến thí sinh trúng tuyển qua hệ thống. Sau đó theo lịch, thí sinh xác nhận nhập học thông qua DVCTT và được thực hiện mọi nơi có kết nối Internet.

Thứ hai là dịch vụ Cấp hộ chiếu phổ thông của Bộ Công an

Trước đây: Phải đến cơ quan Công an để lấy vân tay, chụp ảnh, xác nhận CMND/CCCD, cư trú, quan hệ nhân thân.

Hiện tại: Dịch vụ công cấp hộ chiếu phổ thông đã ứng dụng công nghệ kiểm tra chất lượng ảnh theo tiêu chuẩn ICAO để kiểm tra ảnh của người dân (ảnh 4x6) nộp trên Cổng dịch vụ công Bộ Công an có đáp ứng tiêu chuẩn in ấn hộ chiếu phổ thông. Người dân có thể nộp hồ sơ, thanh toán trực tuyến hoàn toàn trên môi trường mạng, nhận kết quả qua dịch vụ bưu chính công ích mà không cần phải đến trực tiếp cơ quan nhà nước. Về kết quả cụ thể, tính từ ngày 1/1/2023 đến hết ngày 15/8/2023 dịch vụ công cấp hộ chiếu phổ thông đã tiếp nhận 1.871.341 hồ sơ, trong đó có 1.737.665 hồ sơ trực tuyến, đạt tỷ lệ 92,86%.

Trước đây: Người dân không nắm bắt được quy trình xử lý hồ sơ, chỉ nhận được cuộc gọi hoặc tin nhắn để đến nhận hồ sơ trực tiếp.

Hiện tại: Các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ được thực hiện trên môi trường mạng, có thể theo dõi, giám sát được tình trạng giải quyết hồ sơ.

Thứ ba là dịch vụ “Khai thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh” của Bộ Tài chính

Trước đây

Nộp trực tiếp hồ sơ khai thuế bằng giấy thường đòi hỏi nhiều bước thủ tục hơn, người nộp thuế cần phải đến trực tiếp cơ quan thuế nộp hồ sơ giấy.

Quá trình nộp thuế bằng hồ sơ giấy thường mất nhiều thời gian hơn do phải di chuyển và xử lý thủ tục thủ công. Gây phiền toái đặc biệt khi cần khai thuế và nộp thuế định kỳ.

Vì quá trình ghi nhận và xử lý thông tin là thủ công, nên có nguy cơ xảy ra sai sót từ phía người nộp thuế hoặc cơ quan thuế.

Thường khó để theo dõi trạng thái của hồ sơ và kiểm tra tình hình thuế một cách minh bạch.

Hiện tại

Việc triển khai DVCTT giúp người dân và doanh nghiệp tiết kiệm về thời gian. Thời gian trung bình mỗi doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện TTHC Thuế là khoảng 05 giờ. Người nộp thuế có thể nộp thuế, tra cứu thông tin thuế, và thực hiện các giao dịch khác một cách dễ dàng từ bất kỳ đâu có kết nối internet.

Cải thiện tính minh bạch và theo dõi giao dịch thuế => giảm thiểu tình trạng gian lận thuế bằng cách tạo ra một hệ thống theo dõi và kiểm tra hiệu quả.

Sử dụng hệ thống thuế trực tuyến giúp tăng cường khả năng thu thuế của nhà nước thông qua việc nắm bắt và theo dõi dữ liệu thuế một cách hiệu quả hơn => tăng thu ngân sách và cải thiện tình hình tài chính công.

Giảm bớt tình trạng tồn đọng giấy tờ và thủ tục hành chính => giúp tiết kiệm nguồn lực của cơ quan thuế và giảm tải cho hệ thống hành chính.

Tạo ra sự tin tưởng của người dân và doanh nghiệp đối với cơ quan thuế => tạo sự hỗ trợ và sự hợp tác trong việc tuân thủ thuế.

Ngoài những câu chuyện về cách tiếp cận của Việt Nam trong chuyển đổi số nêu trên, con đường của Việt Nam trong chuyên đổi số còn là con đường đưa doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam đi ra nước ngoài. Bởi đi ra nước ngoài là cạnh tranh với những người xuất sắc nhất. Đây là cách để chúng ta trở nên xuất sắc, có năng lực cạnh tranh quốc tế. Cũng vì có năng lực cạnh tranh quốc tế mà chúng ta tồn tại được lâu dài ở trong nước. Đi ra nước ngoài cũng là để bảo vệ Việt Nam. Đây là mục tiêu và sứ mệnh của Doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam.

Làm sao để khởi động chuyển đổi số một cách dễ dàng?

Loài người có những bài toán tồn tại hàng trăm năm, tồn tại hàng ngàn năm. Ví dụ như bài toán về chênh lệch khoảng cách giữa nông thôn và thành thị về tiếp cận các dịch vụ như y tế, giáo dục. Nhà nước cũng có những tồn tại, căn bệnh gắn liền với nó. Ví dụ như tham nhũng, tiêu cực. thí dụ như chất lượng công việc của cán bộ, công chức, viên chức không cao. Chuyển đổi sẽ tạo ra cơ hội mới để giải quyết những bài toán này. Giải quyết được, hoặc giải quyết được một phần căn bản của các bài toán này thì sẽ tạo ra sự phát triển mới cho đất nước.

Sau đây là một số ví dụ cụ thể:

- Thứ nhất, chuyển đổi số và bài toán về động lực tăng trưởng mới: Phát triển thì cần không gian mới. Chuyển đổi số tạo ra không gian mới cho phát triển. Trung Quốc, năm 2020, kinh tế số đã chiếm tới gần 40% GDP Việt Nam, năm 2021, kinh tế số mới khoảng 11-12%. Không gian tăng trưởng ở đây là rất lớn. Mục tiêu về kinh là số Việt Nam là 20% GDP vào năm 2025, tức là phải tăng trưởng 20-25%/năm.

- Thứ hai, chuyển đổi số và bài toán cạn kiệt tài nguyên: Con người trong quá khứ tiêu xài tài nguyên mà chưa bao giờ tạo ra tài nguyên. Chuyển đổi số giúp tối ưu hóa quản lý tài nguyên. Dữ liệu số giúp tính toán tối ưu đầu vào, đầu ra sản xuất và bảo trì tiên đoán. Chuyển đổi số giúp tối ưu hóa phân phối tiêu dùng tài nguyên, kết nối sử dụng hiệu quả nguồn lực trong xã hội, giảm bớt tiêu dùng vật chất, tăng cường tiêu dùng số. Chuyển đổi số giúp tạo ra tài nguyên mới là dữ liệu. Dữ liệu là đất đai mới, càng chuyển đổi số càng tạo ra nhiều dữ liệu.

- Thứ ba, chuyển đổi số và bài toán khoảng cách giữa nông thôn – thành thị trong tiếp cận y tế, giáo dục: Trong môi trường số thì không còn khoảng cách. Một người thầy giỏi có thể dạy cho cả triệu người nghe, dù ở bất kỳ đầu. Vậy là ở nông thôn vẫn tiếp cận được với người thầy giỏi mà không phải gửi con về thành phố học. Một người ở tận biên giới xa xôi vẫn có thể lên nền tảng số tư vấn khám chữa bệnh từ xa để gặp người bác sĩ giỏi nhất về bệnh của mình để tư vấn

- Thứ tư, chuyển đổi số và bài toán nghèo của nông dân: khó khăn của người nông dân là không bán được sản phẩm của mình trực tiếp tới người tiêu dùng và vì thế mà giá nông sản đã thấp nhưng người nông dân thu về còn thấp hơn. Khó khăn của người nông dân là bán quả chuối trong vườn nhà mình không khác gì quá chuối ở bất kỳ đâu, tức là quả chuối không xuất xứ và không thương hiệu và vì thể giả rất thấp. Khó khăn của người nông dân là đã nghèo nhưng mua con giống, mua phân bón không biết có đúng giá, đúng chất lượng không. Chỉ có thương hiệu thì giá nông sản mới cao lên được. Nếu không có thương hiệu, năng suất càng cao thì giá càng thấp. Việc mua bán trên sàn thương mại điện tử sẽ giúp kiểm soát được xuất xứ và chất lượng, giá cả; bà con hay HTX sẽ xây dựng và bảo vệ được thương hiệu của mình.

- Thứ năm, chất lượng công việc của cấn bộ, công chức cũng là vấn đề lớn của bộ máy nhà nước. Thường thì nhà nước trả lương không cao, thu hút không được nhiều người giỏi. Nhưng khi chuyển đổi số và xây dựng chính phủ số thì chúng ta sẽ phát triển một nền tặng làm việc số. Mọi trí thức, quy định của chính quyền sẽ được lập trình vào nền tăng số này để hỗ trợ cán bộ công viên chức làm việc. Ngôi trên nền tảng số để làm việc thì bất kỳ ai cũng đã được 7-8 điểm rồi. Tức là người thấp nhất cũng được 7-8 điểm. Nền tảng làm việc này cũng giúp cho chất lượng bộ máy được đồng đều.

- Thứ sau, vấn nạn tham nhũng của bộ máy nhà nước thì có một nguyên nhân chính là chúng ta không có công cụ giám sát toàn diện. Trung ương không nhìn thấy tỉnh, không nhìn thấy huyện, không nhìn thấy xã. Có vụ việc mới đi thanh tra thì đã muộn. Đi giám sát, kiểm tra thì cũng không được nhiều vì bộ máy làm kiểm tra, giám sát là có hạn. Nhưng nếu tất cả hệ thống nhà nước, công viên chức hoạt động 100% trên môi trường số, mọi thứ được ghi nhận lại dưới dạng dữ liệu, thì chúng ta có thể dùng trí tuệ nhân tạo giám sát trực tuyến (online) toàn diện toàn bộ bộ máy nhà nước, đến từng người, từ đó phân tích, đánh giá, phát hiện sớm các vấn đề và nhắc nhở sớm thì sẽ không có tai nạn lớn. Giám sát toàn diện và trực tuyến là công cụ hiệu quả nhất để phòng chống tham nhũng, tiêu cực.

Các quy định của nhà nước có xu thế ngày càng nhiều mà không ai có thể nhớ hết được, vậy là làm việc có khi sai mà không biết. Phát triển một trợ lý ảo, nhớ hết tất cả các quy định, mỗi khi cần gì thì hỏi trợ lý này. Mỗi cán bộ công chức sẽ có một trợ lý bên cạnh, thông qua chiếc điện thoại thông minh hoặc máy tính bảng. Chất lượng, năng suất lao động của bộ máy sẽ được cải thiện đáng kể.

Đối với một địa phương, trước đây, triển khai ứng dụng công nghệ thông tin không phải là một việc quá dễ dàng. Vì phải triển khai, vận hành hệ thống, phải đào tạo người dùng. Những việc này lại phải làm ở từng đơn vị, từng xã, từng huyện, từng tỉnh nên rất thiếu cán bộ công nghệ thông tin. Với công nghệ số thì không có các bài toán này. Tất cả là trên nền tảng, các xã, các huyện chỉ cần đăng ký vào để dùng, không còn hệ thống ở từng xã, từng huyện nữa. Dễ dùng đến mức không cần đào tạo. Các quy trình, cách làm đã được đưa vào nền tảng số, người dùng không cần nhớ, không cần học.

 

Đối với những bài toán mới thì lãnh đạo tỉnh chỉ cần đặt ra bài toán, đặt ra mục tiêu cần đạt được, lượng hóa giá trị cần tạo ra để biết chi phí tối đa có thể chi. Lãnh đạo cũng phải tạo ra thể chế cho cái mới được phép vận hành. Lãnh đạo không cần quá quan tâm đến việc làm thế nào. Việc này hãy để cho doanh nghiệp làm, đây là nghề của họ và họ giỏi hơn lãnh đạo. Lãnh đạo khi bị quấn vào bàn bạc cách làm, nhất là cách làm một việc mà mình không có chuyên môn như chuyển đổi số, thì sẽ không ra được quyết định làm hay không làm và vì vậy mà nhiều việc sẽ bị treo ở đó.

Có một cách tiếp cận nữa cũng rất hiệu quả là hãy để cho người dân, doanh nghiệp đề xuất với tỉnh những việc, những giá trị mà họ có thể tạo ra cho tỉnh. Tỉnh xem xét nếu thấy giá trị tạo ra cho tỉnh lớn hơn chi phí thì cho làm. Đây là cách đưa toàn dân vào tham gia đổi mới sáng tạo cho tỉnh. Toàn dân tham gia phát triển tỉnh. Không nên coi các ý tưởng phát triển tỉnh nhà là độc quyền của công chức nhà nước. Thường thì những đột phá, những giá trị lớn bất ngờ là xuất phát từ sáng tạo của trí tuệ nhân dân.

Chuyển đổi số tạo ra sự phát triển hài hoà. Vì nó tạo ra cả âm và dương, cả thực và ảo. Và do vậy mà cân bằng hơn. Chuyển đổi số cũng tạo ra sự tiêu xài các sản phẩm số thuần tuý và tiêu xài vật chất ít đi giúp con người hài hoà với thiên nhiên. Chuyển đổi số giảm khoảng cách nông thôn và thành thị, nước giàu và nước nghèo và do vậy, quốc gia, thế giới cũng hài hoà hơn. Chuyển đổi số giúp nhà nước lắng nghe được tiếng nói người dân, và vì thế mà làm cân bằng quyền lực nhà nước và cá nhân. Chuyển đổi số làm tăng trách nhiệm của cá nhân vì được nhìn thấy nhiều hơn trên không gian mạng và cũng vì vậy mà mỗi người sống và làm việc có trách nhiệm hơn, cân bằng hơn giữa quyền và trách nhiệm.

Thể chế cho chuyển đổi số được kiến tạo như thế nào?

Thể chế cho chuyển đổi số cần được kiến tạo theo hướng khuyến khích, sẵn sàng chấp nhận sản phẩm, giải pháp, dịch vụ, mô hình kinh doanh số, thúc đẩy phương thức quản lý mới đối với những mối quan hệ mới phát sinh, bao gồm: 

a) Chấp nhận thử nghiệm sản phẩm, giải pháp, dịch vụ, mô hình kinh doanh số trong khi quy định pháp lý chưa đầy đủ, rõ ràng, song song với việc hoàn thiện hành lang pháp lý.

Xây dựng khung pháp lý thử nghiệm có kiểm soát cho hoạt động phát triển, thử nghiệm và áp dụng các sản phẩm, giải pháp, dịch vụ, mô hình kinh doanh số ở Việt Nam, quy định rõ phạm vi không gian và thời gian thử nghiệm, để khuyến khích đổi mới, sáng tạo;

b) Rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực chuyên ngành để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các mối quan hệ mới phát sinh trong tiến trình chuyển đổi số, khuyến khích đổi mới, sáng tạo;

c) Rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về doanh nghiệp, khởi nghiệp sáng tạo, sở hữu trí tuệ, thương mại, đầu tư, kinh doanh để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số quốc gia và phát triển các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới dựa trên công nghệ số, Internet và không gian mạng;

d) Nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật về công nghệ thông tin và truyền thông (Luật Giao dịch điện tử, Luật Công nghệ thông tin, Luật Viễn thông,…) để đảm bảo đầu tư của Nhà nước và huy động nguồn lực từ doanh nghiệp, xã hội để chuyển đổi số theo hướng: Khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân đầu tư, tài trợ cho chuyển đổi số; Nghiên cứu, sửa đổi các quy định về Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp cho các nội dung chuyển đổi số của doanh nghiệp.

đ) Nghiên cứu chính sách, quy định cụ thể về thuế, phí để khuyến khích người dân, doanh nghiệp sử dụng, cung cấp các dịch vụ số.

e) Rà soát, đề xuất sửa đổi các văn bản pháp luật dân sự, hình sự và các luật chuyên ngành theo hướng tăng nặng mức và hình phạt cho các hành vi lừa đảo, gian lận khi giao dịch trên không gian mạng cũng như các hành vi lợi dụng, khai thác trái phép thông tin riêng, cá nhân trên mạng để người dùng an tâm khi thực hiện các giao dịch số.

Trong phát biểu của mình, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đã nhấn mạnh “Về thể chế thì quan trọng nhất là chính sách thu hút nhân tài toàn cầu, là sự chấp nhận các công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới, các mối quan hệ mới trong thế giới ảo, đi đôi với việc bảo vệ các giá trị căn bản của nhân loại, của văn hoá Việt Nam, luôn lấy con người làm trung tâm trong quá trình chuyển đổi số. Cái mới thì chưa biết nên cũng không thể biết cách quản lý, do vậy cơ chế sandbox, tức là cho thí điểm, nhưng giới hạn trong một không gian và thời gian nhất định, là cách tiếp cận cái mới tốt nhất, mà Nghị quyết 52 đã chỉ ra”.

Từ những yêu cầu về tính pháp lý trong việc giải quyết những vấn đề mới nhằm khai thác những thành tựu của cuộc trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thì chúng ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức mà một trong số đó chính là hoàn thiện thể chế và pháp luật hiện hành. Như vậy, việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời đại công nghiệp 4.0 phải gắn với đặc trưng cơ bản của CMCN 4.0, cũng như gắn với yêu cầu, điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam. Có thể thấy, CMCN 4.0 đã đặt ra một số yêu cầu cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam như sau:

Thứ nhất là việc nắm bắt đầy đủ, chính xác các mối quan hệ xã hội mới phát sinh, cần nhu cầu điều chỉnh của pháp luật. Theo đó, Bộ TTTT đã chủ động xây dựng và ban hành nhiều VBQPPL liên quan đến 6 lĩnh vực thuộc quản lý chuyên ngành của Bộ bao gồm: bưu chính, tần số, viễn thông, công nghệ thông tin, báo chí, xuất bản, an toàn thông tin nắm bắt đầy đủ chính xác các quan hệ mới phát sinh, nhu cầu cần điều chỉnh các quan hệ xã hội, rà soát xác định khuôn khổ pháp lý điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh để đánh giá tính đầy đủ, những khó khăn, vướng mắc, bất cập và từ đó đề xuất sửa đổi bổ sung hoặc ban hành mới theo thẩm quyền điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Thứ hai, CMCN 4.0 với khuynh hướng phát triển như hiện nay đã bắt đầu và sẽ thúc đẩy sự cải cách pháp luật trên tất cả các lĩnh vực, kể cả từ Hiến pháp đến pháp luật hành chính, hình sự, dân sự, thương mại, lao động... Nhưng sẽ tập trung nhiều vào lĩnh vực pháp luật liên quan trực tiếp đến các thiết chế nhà nước, xã hội; bảo đảm công bằng, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quản trị môi trường ảo, tội phạm công nghệ cao, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, sở hữu trí tuệ, quản trị doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thương mại điện tử, tài sản ảo, an sinh xã hội, nghề nghiệp... Đối với lĩnh vực thông tin và truyền thông, vấn đề hạ tầng thì quan trọng nhất là chuyển đổi hạ tầng viễn thông thành hạ tầng ICT thế hệ mới và làm chủ các công nghệ nền tảng của chuyển đổi số như IoT, Big Data, AI. Rất nhiều công nghệ mới đang xuất hiện cho phép Việt Nam chuyển đổi nhanh chóng hạ tầng viễn thông thành hạ tầng ICT thế hệ mới. Trên cơ sở nắm bắt kịp thời, đầy đủ các quan hệ xã hội phát sinh, pháp luật Việt Nam phải cải cách để hướng tới hai mục tiêu ở hai tầng nấc khác nhau: mục tiêu cho việc thúc đẩy kinh tế - xã hội nhanh chóng tiếp cận nội dung CMCN 4.0 và mục tiêu cho các hệ quả mà CMCN 4.0 đem lại.

Thứ ba, việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong bối cảnh CMCN 4.0 phải thay đổi toàn diện, xuất phát từ các yếu tố cơ bản của pháp luật về không gian, thời gian, chủ thể pháp lý, các hành vi và phương tiện pháp luật, cơ sở và nội dung pháp luật. Theo đó, tác động của công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo và robot thông minh, không gian pháp luật sẽ bị thay đổi, có thể vượt ra khỏi phạm vi không gian lãnh thổ thông thường và đại lượng thời gian cũng sẽ thay đổi tương tự theo không gian pháp luật. Đặc biệt, CMCN 4.0 sẽ dẫn đến sự xuất hiện những chủ thể mới, gắn với các quyền, nghĩa vụ và theo đó quy mô, cơ cấu các chủ thể pháp lý truyền thống sẽ thay đổi với sự xuất hiện của nhiều chủ thể vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia và do vậy pháp luật cần hoàn chỉnh để điều chỉnh vấn đề này. Gắn với chủ thể là sự thay đổi của các hành vi pháp lý và phương tiện pháp luật (một số hành vi pháp lý mới sẽ phát sinh như giao dịch tài sản ảo, hành vi phá hoại máy chủ theo virus, mua và bán lại lỗ hổng bảo mật... để cung cấp cho các cơ quan sử dụng nhằm theo dõi tội phạm, giám sát công ty và chính phủ nước ngoài, hoặc công dân của họ - đây là các hành vi được coi là hoạt động sinh lời cho một số công ty). Để có thể kiểm soát các hành vi này thì các quan niệm truyền thống về chế tài pháp lý, vi phạm pháp luật, quy trình tố tụng... cũng cần được tiếp cận, định nghĩa lại cho phù hợp. Cuối cùng, CMCN 4.0 cũng đặt ra yêu cầu phải thay đổi nội dung pháp luật. Định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật ở từng lĩnh vực kinh tế - xã hội và trong đó có lĩnh vực thông tin và truyền thông.

Để thực hiện chuyển đổi số, một người quản lý cần có những kỹ năng gì?

Ngoài những kiến thức và kỹ năng thông thường của một nhà quản lý họ sẽ cần có các hiểu biết tổng quan về các xu hướng công nghệ số liên quan, các xu hướng mới trong lĩnh vực ngành nghề của mình. Các công nghệ số đang thay đổi rất nhanh, nhiều điều cho đến gần đây còn được coi là bất khả thi thì nay đã trở nên phổ biến, điều này gây khó khăn thậm chí cả cho các chuyên gia uy tín trong ngành công nghệ. Hiển nhiên nhà quản lý không thể hiểu sâu về tất cả các công nghệ liên quan nhưng những hiểu biết căn bản về các công nghệ số chủ đạo đang trở thành kiến thức phổ thông mà nếu không nắm được thì không thể nói đến chuyển đổi số.

Trong thời đại cách mạng công nghiệp, mọi thứ thay đổi như vũ bão thì kỹ năng quan trọng nhất chính là kỹ năng quản lý sự thay đổi, là khả năng truyền cảm hứng sáng tạo cho tập thể của mình, là khả năng điều chỉnh tầm nhìn và các mục tiêu chiến lược một cách linh hoạt theo diễn biến của thị trường.

Các kiến thức, kỹ năng sâu về công nghệ bạn có thể nhờ chuyên gia nhưng khả năng lèo lái con thuyền trong biển động thì bạn sẽ phải tự học và tự rèn luyện trong thực tế.

Dưới đây là 4 kỹ năng gợi ý cần có cho người quản lý để thực hiện chuyển đổi số của một doanh nghiệp:

- Thứ nhất là kiến thức và tư duy về công nghệ: Muốn lãnh đạo chuyển đổi số, trước hết phải nắm rõ về tiềm năng công nghệ và những bước tiến hiện nay của thị trường giải pháp. “Nắm” ở đây không đơn giản là có chút kiến thức về những công cụ marketing online, chatbot trả lời khách hàng tự động… Nắm ở đây là tìm hiểu sâu hơn về các công nghệ cốt lõi của chúng (hệ thống Big Data, blockchain, AI hay cloud,…), tại sao chúng có thể thực hiện được các chức năng trên. Có thể bạn không cần hiểu sâu về thuật toán, công nghệ như các chuyên gia lập trình, nhưng hãy cố gắng ‘chạm tới bản chất’ của chúng. Khi đã nắm được cách thức hoạt động, nguyên lý vận hành đằng sau mỗi giải pháp, chúng ta sẽ dễ dàng đánh giá tiềm năng và tính khả thi của chúng khi giải quyết các vấn đề khác nhau. Làm được điều này, chúng ta sẽ không bị động và thao túng bởi công nghệ, mà là chủ động chọn lọc và sử dụng công nghệ đúng mục đích. Sự lựa chọn các ứng dụng, công cụ trên thị trường cũng đa dạng hơn. Thậm chí, doanh nghiệp có thể đầu tư phát triển các ứng dụng riêng theo đặc thù doanh nghiệp thay vì bị giới hạn bởi các giải pháp sẵn có trên thị trường.

- Thứ hai là tầm nhìn chiến lược: Chuyển đổi số không chỉ là vận dụng công nghệ để giải quyết một vấn đề tức thời của doanh nghiệp. Một chiến dịch chuyển đổi số có thể thay đổi mô hình kinh doanh, thích ứng, đón đầu, tạo ra cách vận hành mới hoặc thậm chí cải tiến sản phẩm cho doanh nghiệp.

 

Để làm được điều này, người lãnh đạo trong quy trình chuyển đổi số của doanh nghiệp phải có khả năng vẽ ra một chiến lược bài bản, dài hạn và chặt chẽ. Thiếu tầm nhìn chiến lược, công cuộc chuyển đổi số của doanh nghiệp chỉ dừng ở một vài khâu, vài ứng dụng để giải quyết một số nhu cầu tức thời. Điều này khiến doanh nghiệp đi vào lối mòn “chuyển đổi số lưng chừng”, dẫn đến một “thành quả” không khác biệt lắm so với trước khi chuyển đổi.

Do đó, lãnh đạo với tầm nhìn chiến lược, với năng lực thấu hiểu, đoán biết nhu cầu và khát khao chinh phục thị trường của mình sẽ có động lực quyết liệt hơn cho việc đầu tư và thực thi chuyển đổi số. Các nhà lãnh đạo chuyển đổi số có thể xây dựng chiến lược này qua 7 bước sau:

Bước 1: Xác định ý nghĩa của chuyển đổi số với doanh nghiệp hiện tại

Bước 2: Đánh giá hiện trạng và mong muốn của doanh nghiệp

Bước 3: Xây dựng các bước chuyển đổi số trong từng giai đoạn, mục tiêu

Bước 4: Lập kế hoạch thực hiện chi tiết.

Bước 5: Xây dựng nền tảng dữ liệu, công nghệ cần thiết

Bước 6: Chuẩn bị đội ngũ nhân lực thích hợp.

Bước 7: Thực hiện số hóa thông tin, số hóa quy trình tiến tới chuyển đổi số tổng thể.

Thứ ba là tái cấu trúc doanh nghiệp theo sự chuyển dịch: Phải hiểu được rằng với chuyển đổi số, các công việc, quy trình, hành động đều có liên quan mật thiết, thậm chí nó còn được thiết lập là các điều kiện, phải đáp ứng đủ 2 bước của quy trình A mới đến được quy trình B… Cấu trúc công ty, hơn bao giờ hết, cần liền mạch, thống nhất logic với nhau từng bước trong hoạt động. Thậm chí, doanh nghiệp cần phải tái cấu trúc bộ phận để ứng dụng công nghệ tối ưu nhất.

Vì vậy, người lãnh đạo trong chuyển đổi số phải vẽ ra được một lộ trình vận hành chặt chẽ và logic trong từng phòng ban. Những lãnh đạo, quản lý cần phải ngồi lại rất nhiều với trưởng các bộ phận, cùng nhau thống nhất được quy trình mới và hỗ trợ tối ưu nhân viên các cấp thực hiện.

Thứ tư là năng lực lãnh đạo quản lý các dự án chuyển đổi số:  Việc ứng dụng chuyển đổi số đòi hỏi doanh nghiệp phải tiến hành một chiến dịch lớn. Mỗi chiến dịch là những dự án chuyển đổi số khác nhau trong từng phòng ban. Vì thể, lãnh đạo cần những kỹ năng quản lý dự án và kiểm thử liên tục để đảm bảo thành công. Từ đó thì quá trình chuyển giao mới được triển khai đồng bộ, nhịp nhàng và luôn có sự liên kết chặt chẽ với nhau.

Hơn cả, tính chất chiến lược của dự án chuyển đổi số luôn được kỳ vọng ở mức độ thành công rất cao. Nó có thể “make or break” (tạo dựng hoặc phá hủy) uy tín của lãnh đạo doanh nghiệp. Nó cũng có thể tạo sự thay đổi tích cực đến hoạt động của công ty hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin của đội ngũ đối với lãnh đạo và các dự án công nghệ khác.

Chưa kể, khi doanh nghiệp thực hiện các dự án số hóa, các đối tượng tham gia phần lớn là những con người nội bộ, với nguồn vốn nội bộ ở quy mô lớn. Một bước sai phạm cũng gây tổn thất lớn cho nguồn lực. Do vậy, thách thức quản lý dự án dành cho nhà lãnh đạo do vậy lại càng tăng lên gấp nhiều lần! Lãnh đạo cần hiểu bắt đầu thế nào, nguồn lực ở đâu, phân bổ công việc ra sao, quản lý chất lượng cặn kẽ hơn bao giờ hết.

Sử dụng nền tảng để chuyển đổi số như thế nào cho phù hợp?

Chương trình Chuyển đổi số quốc gia xác định: Phát triển nền tảng số là giải pháp đột phá để thúc đẩy chuyển đổi số nhanh hơn, giảm chi phí, tăng hiệu quả. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số tái khẳng định: Nền tảng là giải pháp đột phá. Kết hợp mô hình triển khai tập trung và phân tán, tuân thủ Khung Kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam và Kiến trúc của các bộ, ngành, địa phương. Phát triển các nền tảng theo hướng cung cấp dịch vụ đồng bộ, thông suốt các cấp hành chính để có thể sử dụng tại mọi nơi. Các nền tảng, ứng dụng và dịch vụ quy mô quốc gia phải được làm trước, làm tốt, làm tập trung.

Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số lại tiếp tục nhấn mạnh: Điểm đột phá là nắm bắt cơ hội, phát triển và phổ cập thật nhanh các nền tảng số quốc gia phục vụ các nhu cầu riêng, đặc thù của người Việt Nam, trên cơ sở phân loại và thấu hiểu nhu cầu sử dụng của từng ngành, nghề, lĩnh vực. Mỗi nền tảng số quốc gia có một cơ quan chủ quản là một bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân một tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương hoặc một doanh nghiệp để chủ trì điều phối, đặt hàng, phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông và một số doanh nghiệp nòng cốt để thúc đẩy phát triển.

Như vậy, có thể thấy nền tảng số là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng chỉ đạo định hướng về chuyển đổi số Việt Nam, là cách tiếp cận đặc thù Việt Nam trong chuyển đổi số.

Nền tảng số là một khái niệm mới. Thế giới và cộng đồng chuyên gia Việt Nam có nhiều cách định nghĩa, phân loại nền tảng số khác nhau, tùy theo góc nhìn. Ví dụ, góc nhìn của các nhà khoa học máy tính định nghĩa và phân loại nền tảng số khác với góc nhìn của các nhà phát triển công nghệ hay nhà kinh doanh.

Từ góc nhìn tổ chức triển khai chuyển đổi số, Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số lần đầu tiên đưa ra định nghĩa: Nền tảng số là hệ thống thông tin phục vụ các giao dịch điện tử trực tuyến hoạt động theo mô hình sử dụng công nghệ số để tạo môi trường mạng cho phép nhiều bên cùng tham gia để cung cấp dịch vụ cho các tổ chức, cá nhân, có thể sử dụng ngay, đơn giản, thuận tiện, linh hoạt theo yêu cầu, dễ dàng phổ biến trên diện rộng, các bên tham gia không cần tự đầu tư, quản lý, vận hành, duy trì. Nền tảng số là “hạ tầng mềm” của không gian số, giải quyết các bài toán cụ thể của chuyển đổi số, tạo lập và lưu trữ dữ liệu người dùng, càng có nhiều người sử dụng thì dữ liệu càng nhiều, chi phí càng rẻ, giá trị tạo ra càng lớn.

Từ góc nhìn tổ chức triển khai chuyển đổi số, theo loại hình, nền tảng số có thể được phân loại thành ba nhóm như sau:

(1) Nền tảng hạ tầng là nền tảng để cung cấp hạ tầng tính toán như là một dịch vụ. Đối tượng phục vụ chính của nền tảng hạ tầng không phải là con người mà là các hệ thống trung gian. Ví dụ rõ nhất là nền tảng điện toán đám mây loại IaaS và PaaS. Nền tảng định danh và xác thực điện tử, Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu hay Nền tảng IoT cũng có thể thuộc nhóm này;

(2) Nền tảng công nghệ là nền tảng để cung cấp công nghệ như là một dịch vụ. Đối tượng phục vụ chính của nền tảng hạ tầng không phải là con người mà là các hệ thống trung gian. Ví dụ rõ nhất là nền tảng hệ điều hành Android, iOS hay nền tảng trí tuệ nhân tạo để cung cấp trí tuệ nhân tạo như là một dịch vụ;

(3) Nền tảng ứng dụng là nền tảng để cung cấp ứng dụng như là một dịch vụ. Đối tượng phục vụ chính của nền tảng ứng dụng là con người, là người sử dụng. Ví dụ rõ nhất là nền tảng quản trị doanh nghiệp 1Office, nền tảng phần mềm văn phòng Google, nền tảng sàn thương mại điện tử Vỏ Sò.

Từ góc nhìn tổ chức triển khai chuyển đổi số, theo cơ quan chủ quản, nền tảng số có thể được phân loại thành hai nhóm như sau:

(1) Nền tảng số do cơ quan nhà nước là chủ quản, phục vụ hoạt động quản lý nhà nước hoặc cung cấp dịch vụ công phục vụ xã hội;

(2) Nền tảng số doanh nghiệp là chủ quản, cung cấp dịch vụ phục vụ nhu cầu của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và xã hội.

Nền tảng số có ba đặc trưng:

(1) Là hệ thống thông tin chạy trên nền tảng điện toán đám mây;

(2) Cung cấp như là dịch vụ (as-a-service), giống như điện, giống như nước, tương đối độc lập, không phụ thuộc vào thay đổi của người dùng hoặc hạ tầng. Có thể tùy chỉnh, cấu hình được để đáp ứng nhu cầu khác nhau của người dùng mà không cần phải viết lại mã nguồn. Có thể thay đổi hạ tầng tính toán vật lý bên dưới mà không làm gián đoạn dịch vụ;

(3) Có lợi thế quy mô (scale), tính toán, xử lý tập trung ở back-end là chính, thiết bị của người dùng chủ yếu làm chức năng hiển thị. Có lợi thế về quy mô,  càng nhiều người sử dụng thì chi phí càng rẻ. Càng nhiều người dùng thì giá trị càng lớn. Bằng việc có nhiều người dùng, cả bên cung và bên cầu, nền tảng số cho phép thực hiện các giao dịch, phân bổ, tối ưu hóa nguồn lực để đáp ứng các nhu cầu khác nhau, tạo ra các mô hình kinh doanh mới, dịch vụ mới. Nền tảng số cũng là đặc trưng của cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trước đây mới chỉ có hệ thống thông tin mà chưa có nền tảng số vì đến giờ mới hội tụ đủ các yếu tố là kết nối mạng nhanh hơn, tính toán nhanh hơn, lưu trữ nhiều hơn, rẻ hơn, công nghệ điện toán đám mây và công nghệ lập trình cho phép phát triển hệ thống theo kiến trúc microservices.

Ứng dụng công nghệ thông tin thì giải pháp là đầu tư hệ thống thông tin. Nhưng chuyển đổi số thì giải pháp là sử dụng nền tảng số.

Hệ thống thông tin bao gồm phần cứng, phần mềm và cơ sở dữ liệu. Khi ứng dụng công nghệ thông, các cơ quan, tổ chức thường đầu tư hệ thống thông tin và trở thành người chủ sở hữu của hệ thống thông tin. Chủ sở hữu của hệ thống thông tin cũng chính là người quản trị, vận hành. Vì thế, hầu hết cơ quan, tổ chức gặp phải vấn đề về sự chuyên nghiệp, đặc biệt là cơ quan nhà nước, khi biên chế hạn hẹp và đây không phải là sở trường của đội ngũ công chức, viên chức cơ quan nhà nước.

Nền tảng số là hệ thống thông tin thế hệ mới, là bước phát triển tiếp theo có được nhờ sự phát triển của công nghệ số, phần cứng được ảo hóa, chạy trên hạ tầng điện toán đám mây, phần mềm và cơ sở dữ liệu được cung cấp như là một dịch vụ. Khi sử dụng nền tảng, cơ quan, tổ chức sử dụng là người sử dụng dịch vụ và trở thành chủ sở hữu của dữ liệu. Vì thế, cơ quan, tổ chức sử dụng không gặp phải vấn đề về sự quản trị, vận hành chuyên nghiệp. Ví dụ rõ ràng nhất là cơ quan nhà nước thay vì đầu tư phòng máy chủ, đầu tư trung tâm dữ liệu thì cơ quan nhà nước sử dụng dịch vụ điện toán đám mây của doanh nghiệp. Nền tảng số biến công nghệ giống như điện, giống như nước. Vì sử dụng điện lưới nên mới điện khí hóa được toàn dân. Thay vì mỗi nhà một máy phát điện. Vì sử dụng nước máy nên mới nước sạch được toàn dân. Thay vì mỗi nhà một giếng nước. Vì sử dụng nền tảng số nên mới chuyển đổi số được toàn dân. Thay vì mỗi nhà một hệ thống thông tin.

Chuyển đổi số, phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số bằng các nền tảng số Việt Nam là giải pháp đột phá, là cách làm Việt Nam, là con đường chuyển đổi số Việt Nam. Chuyển đổi số bằng nền tảng số Việt Nam là sự hợp lực giữa cơ quan nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp chuyển đổi số với doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam, gắn kết giữa cung và cầu, qua đó, thúc đẩy phát triển cả cung lẫn cầu, tạo sự gắn kết hữu cơ giữa phát triển chính quyền số với phát triển kinh tế số và xã hội số. Chuyển đổi số bằng nền tảng số Việt Nam cũng là giải pháp căn cơ lâu dài để bảo đảm an ninh quốc gia và chủ quyền số quốc gia, vì các nền tảng số được coi là lãnh thổ mới trên môi trường số, là nơi lưu trữ dữ liệu của người dùng.

Chính quyền điện tử là chính quyền có khả năng họp không gặp mặt trực tiếp, xử lý văn bản không giấy, giải quyết thủ tục hành chính không tiếp xúc và thanh toán phí, lệ phí không dùng tiền mặt. Chính quyền số là chính quyền điện tử, có toàn bộ hoạt động trên môi trường số, có mô hình hoạt động được thiết kế lại và vận hành dựa trên dữ liệu, có khả năng cung cấp dịch vụ mới, ban hành quyết định kịp thời, sử dụng nguồn lực tối ưu và có khả năng giải quyết các vấn đề đã tồn tại dai dẳng, kiến tạo và dẫn dắt chuyển đổi quốc gia.

Điểm mấu chốt để chuyển đổi từ chính quyền điện tử sang chính quyền số là việc chuyển đổi từ đầu tư hệ thống thông tin sang sử dụng nền tảng số thống nhất. Nếu mỗi sở, ngành, quận, huyện đầu tư các hệ thống thông tin khác nhau thì sẽ gặp vấn đề về kết nối, liên thông, cát cứ dữ liệu. Nếu cả tỉnh sử dụng một nền tảng số thống nhất thì tự khắc các vấn đề trên được giải quyết. Nếu mỗi cơ quan, tổ chức khi có bài toán cần giải quyết lại phải đầu tư một hệ thống thông tin mới thì vừa chậm, thường kéo dài đến hàng năm, lại vừa tiềm ẩn rủi ro về sự không hiệu quả, chồng chéo, trùng lặp về mặt đầu tư. Nếu cả Bộ sử dụng nền tảng số thống nhất, khi cần cung cấp dịch vụ mới thì có thể ngay lập tức triển khai chỉ sau thời gian tính bằng ngày, bằng tuần, với chi phí chủ yếu là chi phí nhân công thực hiện cấu hình, cài đặt và tập huấn sử dụng thì tự khắc các vấn đề trên được giải quyết.

Bộ Thông tin và Truyền thống hướng dẫn triển khai các nền tảng số phổ biến phục vụ chính quyền số và coi đây là một tiêu chí quan trọng trong đánh giá, xếp hạng chỉ số chuyển đổi số. Mỗi bộ, ngành, địa phương có thể có các nền tảng số đặc thù phục vụ riêng nhu cầu của mình. Các nền tảng số được triển khai tập trung, sử dụng chung thống nhất trong phạm vi toàn bộ cơ quan, đơn vị các cấp trực thuộc.

Trong chương trình bồi dưỡng năm 2022, tại khóa học Cách tiếp cận nền tảng trong triển khai chuyển đổi số, chúng tôi đã đưa giới thiệu và phân tích lần lượt 18 nền tảng số phổ biến phục vụ chính quyền số để triển khai thống nhất trong phạm vị của một bộ, một ngành, một địa phương, 16 nền tảng chuyển đổi số SMEdx phục vụ cho phát triển kinh tế số và 16 nền tảng phổ biến được triển khai thí điểm để phát triển xã hội số.

Sau một thời gian triển khai thực hiện xây dựng và phát triển các nền tảng số phục vụ Chính phủ số, chính quyền số, kinh tế số và xã hội số của các bộ, ngành, địa phương, đến nay đã có nhiều nền tảng số tiện ích được xây dựng, mở ra không gian sống và làm việc mới.

Các nền tảng số đã cung cấp nhiều những tiện ích và dịch vụ trực tuyến giúp người dân tiết kiệm thời gian và công sức. Người dân có thể dễ dàng truy cập và tìm kiếm thông tin qua internet, từ việc tra cứu kiến thức, tìm hiểu về sức khỏe, đến việc mua sắm trực tuyến và đặt hàng từ xa. Các dịch vụ ngân hàng trực tuyến cho phép người dân thực hiện các giao dịch tài chính một cách thuận tiện và an toàn. Nền tảng số cũng mở ra cơ hội học tập trực tuyến, cung cấp khóa học và tài liệu giáo dục đa dạng, giúp người dân nâng cao trình độ và kiến thức của mình.

Đối với sự phát triển của đất nước, nền tảng số đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống. Kinh tế số tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, bằng cách cung cấp cơ hội tiếp cận thị trường rộng lớn và khách hàng tiềm năng. Nền tảng số cũng thúc đẩy sự sáng tạo và khởi nghiệp, cho phép các công ty công nghệ mới nổi và các startup phát triển và mở rộng quy mô nhanh chóng hơn.

Có thể nói, nền tảng số đã có những đóng góp quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân và đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước. Trong khuôn khổ tài liệu bồi dưỡng, tập huấn về chuyển đổi số năm 2023, trên cơ sở tổng hợp thông tin và chọn lọc những nền tảng số tiêu biểu, có câu chuyện cụ thể và những bài học kinh nghiệm rõ ràng trong triển khai thực hiện, chúng tôi giới thiệu một số bài học thực tế về ứng dụng nền tảng số để các cơ quan, đơn vị, địa phương có thể tham khảo, học tập mô hình và xây dựng phù hợp với đặc thù của bộ, ngành, địa phương mình.

Nền tảng phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp về kinh tế - xã hội tỉnh Khánh Hòa, bước đầu kết nối giữa chính quyền với người dân

Trong năm 2022 đã có hơn 2.923 tài khoản được người dân, doanh nghiệp đăng ký sử dụng và thực hiện gửi 360 phản ánh, kiến nghị đến tỉnh Khánh Hòa (trong đó, 205 phản ánh, kiến nghị đã có kết quả xử lý, trả lời và 81 ý kiến trao đổi, tương tác của người dân với các cơ quan chức năng trong quá trình xử lý). Đó là kết quả đạt được kể từ sau khi Hệ thống phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp về kinh tế - xã hội tỉnh Khánh Hòa (sau đây gọi là Hệ thống phản ánh, kiến nghị tỉnh Khánh Hòa) được vận hành chính thức vào tháng 10/2022. Việc làm này bước đầu đã mang lại hiệu ứng tích cực, giúp kết nối giữa chính quyền và người dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Khánh Hòa.

  1. Bối cảnh

Trước đây, người dân, doanh nghiệp khi gặp các vấn đề cần phản ánh, kiến nghị đến các cơ quan nhà nước thì không biết gửi đến cơ quan có thẩm quyền nào xử lý hoặc phải gửi đến nhiều cơ quan chức năng nhưng không biết khi nào có kết quả xử lý, trả lời. Cơ quan có thẩm quyền cũng phải mất rất nhiều thời gian trong việc phối hợp, xử lý khiến kết quả giải quyết các phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp đa số đều chậm trễ. Có thể thấy, quá nhiều thủ tục hành chính cùng với quy trình rườm rà đã gây ra không ít khó khăn cho cả người dân lẫn chính quyền.

Từ thực tế này, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Thông tin và Truyền thông chủ trì xây dựng hệ thống phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp về kinh tế - xã hội tỉnh Khánh Hòa để triển khai thực hiện tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của người dân doanh nghiệp về kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa một cách đồng bộ, thống nhất từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xã.

2. Cách làm

Hệ thống phản ánh, kiến nghị tỉnh Khánh Hòa tiếp nhận, xử lý các hồ sơ phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp có liên quan đến các ngành, lĩnh vực về kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa gồm: Tài nguyên và Môi trường, Giao thông vận tải, Xây dựng, Y tế, Giáo dục và Đào tạo, Văn hóa và Thể thao, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tư pháp, Lao động – Thương binh và Xã hội, Du lịch, Thông tin và Truyền thông, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Nội vụ, Khoa học và Công nghệ, Dân tộc, Hạ tầng đô thị hay chia sẻ các thông báo về chủ trương chính sách của tỉnh, thông tin du lịch và các sự kiện lớn của tỉnh

Hệ thống này cung cấp công cụ và kênh thông tin trao đổi, tương tác trực tuyến hiệu quả giữa người dân, doanh nghiệp với các cơ quan nhà nước trong toàn tỉnh, giúp người dân, doanh nghiệp dễ dàng sử dụng, gửi phản ánh, kiến nghị, theo dõi và giám sát kết quả xử lý của các cơ quan chức năng thông qua hệ thống phản ánh, kiến nghị tỉnh Khánh Hòa. 

Bên cạnh đó, cơ quan nhà nước cũng dễ dàng tiếp nhận, xử lý các phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp nhanh chóng, kịp thời; Đồng thời, giúp lãnh đạo các cơ quan, địa phương theo dõi tiến độ, kết quả xử lý các phản ánh, kiến nghị của đơn vị; kịp thời xử lý các trường hợp gây phiền hà, khó khăn nhũng nhiễu người dân, doanh nghiệp; góp phần xây dựng chính quyền điện tử hiện đại, hiệu quả, lấy phục vụ người dân làm trung tâm và nâng cao sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp, đảm bảo việc xây dựng đô thị thông minh thành công trong giai đoạn tiếp theo.

Đặc biệt, khi gửi phản ánh, kiến nghị, người dân và doanh nghiệp chỉ cần cung cấp thông tin rõ ràng, chính xác về nội dung, thời gian, địa điểm, đối tượng phản ánh và có đầy đủ thông tin của người gửi phản ánh. Không những vậy, thông qua ứng dụng di động “PAKN Khánh Hòa”, người dân có thể dễ dàng gửi phản ánh, kiến nghị trên hệ thống kèm theo hình ảnh chụp hoặc video trực tiếp tại hiện trường bằng các thiết bị di động thông minh. Khi đó, ngay lập tức toàn bộ hồ sơ phản ánh, kiến nghị sẽ được Trung tâm Công nghệ thông tin và Dịch vụ hành chính công trực tuyến tiếp nhận, phân loại nội dung cũng như cơ quan xử lý để chuyển đến đúng cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, xử lý theo thời hạn quy định. Kết quả xử lý hồ sơ phản ánh, kiến nghị của cơ quan có thẩm quyền sau khi hoàn thành sẽ được hệ thống tự động gửi thông báo bằng tin nhắn SMS đến số điện thoại, tài khoản trực tuyến, ứng dụng PAKN Khánh Hòa của người dân gửi phản ánh và được công khai trên Hệ thống phản ánh, kiến nghị tỉnh Khánh Hòa, trừ trường hợp người dân đề nghị được giữ bí mật hoặc trường hợp hồ sơ liên quan đến bảo vệ bí mật nhà nước sẽ không được công khai. 

3. Kết quả đạt được

Sau hơn 04 tháng triển khai Hệ thống phản ánh, kiến nghị tỉnh Khánh Hòa đã có 560 tài khoản là cán bộ, công chức, viên chức của tất cả các sở, ban, ngành thuộc tỉnh, các cơ quan Trung ương trên địa bàn tỉnh, UBND cấp huyện, UBND cấp xã được tạo lập để tham gia tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp về các lĩnh vực kinh tế - xã hội trên Hệ thống phản ánh, kiến nghị tỉnh Khánh Hòa. 2.920 tài khoản cá nhân và 13 tài khoản tổ chức được người dân, doanh nghiệp đăng ký trên Hệ thống phản ánh, kiến nghị tỉnh Khánh Hòa; người dân, doanh nghiệp đã thực hiện gửi 360 phản ánh, kiến nghị đến Hệ thống phản ánh, kiến nghị tỉnh Khánh Hòa. 

Việc đưa vào triển khai hệ thống phản ánh, kiến nghị tỉnh Khánh Hòa tập trung, thống nhất trên toàn tỉnh bước đầu đã mang lại hiệu ứng tích cực về kinh tế - xã hội tỉnh Khánh Hòa. Người dân và doanh nghiệp có thể tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại khi gặp các vấn đề cần phản ánh, kiến nghị đến các cơ quan nhà nước; các vụ việc giải quyết khiếu nại, tiếp công dân tập trung tại trụ sở các cơ quan nhà nước đã giảm đi đáng kể từ khi triển khai hệ thống phản ánh, kiến nghị tỉnh Khánh Hòa; từ đó giúp các cơ quan nhà nước kịp thời tiếp nhận, xử lý các vấn đề dư luận quan tâm, góp phần xây dựng kinh tế - xã hội tỉnh Khánh Hòa ngày càng phát triển, văn minh, sạch đẹp.

4. Bài học kinh nghiệm rút ra

Để có thể xây dựng được hệ thống phản ánh, kiến nghị tỉnh Khánh Hòa, điều quan trọng đầu tiên chính là sự thay đổi trong nhận thức của cấp lãnh đạo. Thành công từ chuyển đổi số không đến trong ngày một, ngày hai mà đòi hỏi một tầm nhìn xa, sự quyết tâm và năng lực thực thi để đi được đến đích. Có thể nói, nếu như cấp trên không có tư duy và tầm nhìn xa về chuyển đổi số thì chuyển đổi số chắc chắn sẽ thất bại.

Bên cạnh đó, việc phổ biến hệ thống phản ánh, kiến nghị tỉnh Khánh Hòa đến người dân và doanh nghiệp là cực kỳ cần thiết, bởi nếu người dân, doanh nghiệp không biết đến hệ thống này thì sẽ không có ai phản ánh, kiến nghị đến chính quyền thông qua nó. Chuyển đổi số phải lấy người dân là trung tâm, là chủ thể và là mục tiêu của sự phát triển. Vì thế, nếu không thể tiếp cận với người dân thì chuyển đổi số sẽ không thể thành công được. Hiểu rõ được vấn đề này, chính quyền tỉnh Khánh Hòa đã phối hợp với các nhà mạng viễn thông trên địa bàn tỉnh thực hiện gửi tin nhắn SMS tuyên truyền, quảng bá hệ thống phản ánh, kiến nghị tỉnh Khánh Hòa; phối hợp với Báo Khánh Hòa, Cổng thông tin điện tử tỉnh Khánh Hòa thực hiện đăng tải nhiều lượt tin, bài tuyên truyền hướng dẫn sử dụng, những lợi ích của Hệ thống phản ánh, kiến nghị tỉnh Khánh Hòa đến với đông đảo nhân dân trong toàn tỉnh nhằm tạo kết nối, tăng cường tương tác giữa người dân, doanh nghiệp với các cấp chính quyền trong tỉnh một cách hiệu quả trên môi trường mạng.

Cuối cùng, trước khi hướng dẫn người dân sử dụng hệ thống thì đầu tiên, chính quyền và cán bộ công nhân viên phải hiểu mục đích và thành thạo sử dụng hệ thống này trước. Do đó, tỉnh Khánh Hòa đã tổ chức tập huấn hướng dẫn sử dụng cho tất cả cán bộ đầu mối tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị trên hệ thống phản ánh, kiến nghị tỉnh Khánh Hòa của các sở, ban ngành, UBND cấp huyện, UBND cấp xã, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hạ tầng đô thị; tổ chức tập huấn trực tuyến giới thiệu và hướng dẫn sử dụng hệ thống phản ánh, kiến nghị tỉnh Khánh Hòa trên hệ thống hội nghị trực tuyến tỉnh Khánh Hòa cho thành viên Tổ công nghệ số cộng đồng của thôn/tổ dân phố trong toàn tỉnh để tạo sức lan tỏa rộng rãi trong cộng đồng dân cư.

Với việc triển khai thành công bước đầu, hệ thống phản ánh, kiến nghị tỉnh Khánh Hòa sẽ là công cụ, cầu nối giữa người dân với chính quyền các cấp, giúp cho người dân dễ dàng tương tác với các cấp chính quyền, tạo cơ sở, động lực cho việc triển khai có hiệu quả các dịch vụ đô thị thông minh của tỉnh trong thời gian tới. Qua đó góp phần hoàn thành mục tiêu Kế hoạch chuyển đổi số tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Khánh Hòa theo tinh thần của Nghị quyết số 09-NQ-TW ngày 28/01/2022 của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Nền tảng công dân số thành phố Đà Nẵng (My Portal) - tiện ích mọi lúc, mọi nơi

Sau một thời gian triển khai thí điểm, ngày 12/9/2022, TP. Đà Nẵng đã chính thức đưa vào sử dụng nền tảng Công dân số - My Portal. Nền tảng cho phép tích hợp với các hệ thống, ứng dụng chuyên ngành để cung cấp dịch vụ, tiện ích số, cung cấp thông tin, hướng dẫn kịp thời đến người dân, cho phép người dân dễ dàng góp ý, phản ánh, hiến kế đến Chính quyền và được xử lý, phản hồi kết quả.

1. Bối cảnh

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều chỉ đạo về chuyển đổi số như Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030…. Đồng thời, chính quyền thành phố Đà Nẵng cũng quan tâm, chỉ đạo, giành nhiều nguồn lực để đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng thành phố thông minh như Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 15/6/2021 về chuyển đổi số trên địa bàn thành phố đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; UBND thành phố Đà Nẵng đã ban hành Đề án xây dựng thành phố thông minh tại thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2018-2025, định hướng đến năm 2030 và Đề án Chuyển đổi số trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

Trong đó, Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số xác định “Phát triển Nền tảng ứng dụng trên thiết bị di động cho phép người dân và doanh nghiệp  có thể định danh trên không gian số và sử dụng mọi dịch vụ, tiện ích trong Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số mọi lúc, mọi nơi”.

Đề án Chuyển đổi số thành phố Đà Nẵng cũng xác định ý tưởng ban đầu là cung cấp nền tảng định danh, hỗ trợ người dân đăng nhập tập trung cho tất cả ứng dụng của cơ quan nhà nước, Sở Thông tin và Truyền thông Đà Nẵng đã nâng cấp, phát triển thành Nền tảng Công dân số My Portal Đà Nẵng, trong đó cho phép người dân không chỉ quản lý tài khoản số mà còn định hướng quản lý tập trung, chia sẻ tất cả dữ liệu phát sinh trong quá trình sử dụng các dịch vụ số khác nhau của các cơ quan trên địa bàn thành phố.

2. Cách làm

Nền tảng Công dân số là nơi thu nhận/lưu trữ/cung cấp Hồ sơ công dân số (thông tin hành chính, giấy tờ/dữ liệu số, các giao dịch… gắn với định danh duy nhất), từ đó tạo cho mỗi người dân một mã QR duy nhất và tích hợp các dịch vụ số từ chính quyền, doanh nghiệp để người dân sử dụng dễ dàng, thuận lợi. Các thông tin được đăng nhập 01 và những lần đăng nhập sau sẽ kế thừa lại dữ liệu trước đó. Các cá nhân sử dụng dịch vụ qua mạng hoàn toàn theo hướng cá nhân hoá, cũng như tự quản lý các thông tin, dữ liệu số cá nhân. Một số chức năng chính bao gồm: định danh công dân, Quản lý thông tin số công dân, Quản lý, khai thác dữ liệu số cá nhân, Tích hợp các ứng dụng, tiện ích của hệ thống Chính quyền điện tử thành phố.

Ngoài ra, Nền tảng công dân số cũng thực hiện kết nối với hệ thống thông tin của các cơ quan chuyên môn để tích hợp các tiện ích, ứng dụng đã được triển khai trực tuyến vào hệ thống cho phép công dân thực hiện trực tiếp trên My Portal, trước hết tích hợp các tiện ích phổ dụng sau: Đăng ký lịch khám chữa bệnh; Hẹn giờ giao dịch hành chính; Hẹn giờ tiêm chủng; Cập nhật lịch cúp điện, cúp nước: kết nối với website của Công ty Cổ phần Cấp nước Đà Nẵng và Công ty Điện lực Đà Nẵng cập nhật lịch cúp điện, cúp nước trên địa bàn thành phố vào hệ thống để công dân có thể tra cứu trực tiếp trên My Portal. Nền tảng đồng thời cho phép cập nhật thông báo, gửi thông báo của các đơn vị nhà nước trên địa bàn thành phố tới công dân từ nhiều nguồn khác nhau như Cổng thông tin điện tử thành phố, Trang thông tin điện tử của các sở ban ngành…

Nền tảng My Portal được phát triển theo đúng định hướng và các mô hình, tiêu chuẩn kỹ thuật của Khung kiến trúc Chính quyền điện tử 2.0 thành phố, theo đó Nền tảng cho phép kế thừa tất cả tài khoản điện tử và dữ liệu công dân, doanh nghiệp đã có trên Hệ thống thông tin Chính quyền điện tử thành phố; tất cả dịch vụ chia sẻ, nhận dữ liệu được thực hiện thông qua Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu thành phố (LGSP) và Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NGSP); Kế thừa, chia sẻ dữ liệu với tất cả dữ liệu, ứng dụng nền tảng (như Cổng Dịch vụ công trực tuyến, Một cửa điện tử, Kho dữ liệu...) và các ứng dụng chuyên ngành cho từng cơ quan, đơn vị sở ngành xây dựng; đảm bảo khả năng đăng nhập một lần (SSO) cho cả tài khoản người dân, doanh nghiệp (sử dụng dịch vụ) và tài khoản cán bộ, công chức (quản lý, vận hành dịch vụ); tích hợp tất cả dịch vụ vào ứng dụng Danang Smart City như là một giao diện ứng dụng di động của Nền tảng.

3. Kết quả đạt được

Đến nay, Nền tảng Công dân số đã đồng bộ dữ liệu người sử dụng từ Hệ thống thông tin chính quyền điện tử thành phố và đăng ký mới từ người dân, lũy kế tổng cộng hơn 280.000 tài khoản công dân số. Đồng thời, Sở Thông tin và Truyền thông Đà Nẵng đã phối hợp với các sở, ngành, doanh nghiệp liên quan cung cấp 25 tiện ích và gửi hơn 500 thông báo tới người sử dụng.

Nền tảng Công dân số giúp cơ quan, tổ chức thực hiện phản ánh một cách toàn vẹn các dữ liệu liên quan đến công dân trên mọi lĩnh vực, với mỗi loại dữ liệu, My Portal cung cấp các chức năng truy vấn chi tiết đến các giao dịch, hồ sơ phát sinh liên quan; hỗ trợ tập hợp và chuẩn hóa tất cả các nguồn dữ liệu góp phần phần nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành, báo cáo, ra quyết định của lãnh đạo thành phố; tăng tính tương tác với người dân, doanh nghiệp trên môi trường số, đặc biệt trong việc gửi/nhận thông báo, thu thập thông tin, ý kiến, số liệu khảo sát.

Đối với người dân và doanh nghiệp, Nền tảng cung cấp các chức năng cho phép sử dụng các thông tin được cung cấp từ hệ thống, chủ động tìm kiếm, sử dụng, cập nhật dữ liệu và thông tin để phục vụ cho cuộc sống, công việc kinh doanh dựa trên nguyên tắc đảm bảo đúng quy định của pháp luật, tính riêng tư và an toàn thông tin. Thực hiện quản lý tập trung được tất cả các thông tin định danh, giấy tờ đã được cấp; cung cấp các chức năng tìm kiếm và truy xuất nhanh chóng, chính xác khi cần, mặt khác đây là dữ liệu chính thống, được phát sinh và cấp phát bởi chính quyền, về lâu dài theo xu hướng chính quyền số các giấy tờ số này có giá trị xác thực tương đương bản giấy…

Khó khăn, tồn tại

Trên thực tế, với việc từng cơ quan xây dựng ứng dụng chuyển đổi số, quản lý nhà nước riêng của ngành, các cá nhân, tổ chức sử dụng các dịch vụ này đa số phải đăng ký tài khoản riêng lẻ. Từ đó dẫn tới việc không chỉ khó đảm bảo an toàn, an ninh thông tin, tránh lộ lọt tài khoản mà còn khó khăn khi phải khai báo thông tin cá nhân nhiều lần, hoặc chia sẻ tài liệu, dữ liệu giữa các ứng dụng này với nhau. Trong quá trình triển khai, khâu khó khăn nhất không phải ở mặt triển khai công nghệ mà là ở việc đồng bộ hệ thống mới với các nguồn dữ liệu, ứng dụng hiện có, cụ thể: Một số nguồn dữ liệu được tích hợp nhưng còn thiếu một số trường thông tin hoặc có sai sót trong dữ liệu; Một số nguồn dữ liệu chưa được các cơ quan sẵn sàng chia sẻ do lo ngại về tính bảo mật, toàn vẹn hoặc chưa có chủ trương từ cấp bộ, ngành cho phép chia sẻ; Một số ứng dụng đã có sẵn tại các cơ quan không được thiết kế sẵn cơ chế chia sẻ, tích hợp dữ liệu nên cần phải có thời gian nâng cấp, bổ sung, hoàn chỉnh; Một số cơ quan vẫn có nhu cầu xây dựng riêng các ứng dụng di động để tương tác với tổ chức, công dân thuộc ngành quản lý thay vì tập trung tích hợp vào 01 nền tảng Công dân số thống nhất.

4. Bài học kinh nghiệm

Việc xây dựng một dự án công nghệ số cần xuất phát từ nhu cầu thực tế của người thụ hưởng, có sự giám sát kiểm tra của cơ quan chủ đầu tư từ khâu lên ý tưởng, thiết kế thay vì phụ thuộc hoàn toàn vào đơn vị tư vấn, cơ quan thụ hưởng chỉ có thể góp ý khi có sản phẩm dùng thử nghiệm. Các tính năng được tạo ra luôn lấy người dân, đơn vị thụ hưởng, đơn vị vận hành làm trung tâm, việc chuyển đổi số quy trình cần hạn chế đến mức tối đa việc phiền nhiễu, rườm rà trong khâu vận hành từ truyền thống lên hệ thống công nghệ thông tin, tính năng cần được thiết kế sao cho tự nhiên nhất với quy trình vận hành cũng như trải nghiệm của người dân.

Những tương tác với người dân, doanh nghiệp (ví dụ khảo sát, lấy ý kiến, số liệu, trao đổi hồ sơ, tài liệu...) cần ưu tiên phương án trực tuyến để không chỉ thuận tiện trong quá trình tổng hợp, báo cáo mà còn tạo thói quen chuyển đổi số trong cộng đồng và chính tại từng cơ quan nhà nước. Đặc biệt, việc triển khai cần ưu tiên trên một (hoặc một ít) hệ thống tập trung để tạo thuận lợi trong việc người dùng, đặc biệt là để tạo giao diện, tài khoản quản lý và trải nghiệm người dùng thống nhất. Ngoài ra, các hệ thống được xây dựng cần có các báo cáo, thống kê, tổng hợp linh hoạt, đặc biệt là xây dựng biểu đồ, mô hình thống kê nhằm tạo thuận lợi trong công tác giám sát, theo dõi và chỉ đạo, điều hành.

 

 

Nền tảng Cảng biển số - Cảng Container Quốc tế SP-ITC và câu chuyện chuyển đổi số thành công trong lĩnh vực Khai thác cảng biển

 

Công ty SLT là đơn vị đang triển khai giải pháp công nghệ Nền tảng chuyển đổi số cảng biển. Doanh nghiệp SLT được thành lập từ năm 2014, đến nay đã có 9 năm hoạt động. So với mặt bằng chung với các doanh nghiệp phát triển nền tảng ứng dụng, SLT là một doanh nghiệp còn non trẻ nhưng đã hình thành được một hệ sinh thái, đáp ứng được nhu cầu chuyển đổi số toàn diện của các cảng biển (Nền tảng VSL – Vietnam Smarthub Logistics).

 

  1. Bối cảnh

Việt Nam hiện nay có 145 cảng Container, phân bố ở 25 địa phương. Với đặc thù về hoạt động, yêu cầu xử lý khối lượng hàng hóa ra vào cảng lớn, các doanh nghiệp cảng từ lâu đã có mức độ quan tâm đặc biệt tới ứng dụng CNTT để nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, khai thác cảng. Trước đây, chưa có giải pháp công nghệ nội địa Việt Nam đáp ứng yêu cầu khai thác, các doanh nghiệp cảng chọn mua giải pháp TOS (Terminal Operation System) của nước ngoài với chi phí vài trăm tỉ, chưa kể chi phí duy trì, nâng cấp hàng năm.

Mặc dù vậy, việc ứng dụng CNTT là chưa triệt để, có thể điểm ra một số vấn đề nổi cộm như sau:

- Một doanh nghiệp cảng để vận hành đầy đủ nghiệp vụ của cảng, vẫn cần duy trì sử dụng khoảng 10 ứng dụng phần mềm, mỗi một phần mềm giải quyết nghiệp vụ đặc thù riêng. Dẫn tới dữ liệu giữa các phòng ban chưa được thông suốt. Nhân viên vận hành phải chuyển qua chuyển lại giữa các ứng dụng để thao tác.

- Hoạt động của các cảng hiện nay vẫn còn tương đối độc lập. Ngay cả các cảng trong do cùng một Tập đoàn quản lý, việc sử dụng các giải pháp TOS khác nhau, dẫn tới việc kết nối, liên thông, chia sẻ nội bộ giữa các cảng còn gặp nhiều khó khăn.

- Giải pháp TOS mới chỉ đáp ứng nhu cầu nội bộ của cảng, chưa có sự tham gia của các thành phần logistics khác.

- Một vấn đề lớn nữa về phụ thuộc công nghệ nước ngoài. Nhiều cảng đầu tư mua giải pháp của nước ngoài. Việc sửa chữa, nâng cấp tính năng đều phụ thuộc vào nhà cung cấp nước ngoài với chi phí lớn (lên tới vài chục tỉ / năm). Lực lượng nhân sự IT vận hành bảo trì 20-30 người. Nhân sự đáp ứng khai thác theo đúng quy trình hàng chục người. 

2. Cách làm và kết quả đạt được

Công ty SLT trong những năm qua đã phát triển hệ sinh thái chuyển đổi số cảng biển Make in Việt Nam đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số tổng thể, toàn diện của cảng biển.

 

 

 

 

 

 

 

 

- Thứ nhất, nền tảng chuyển đổi số đưa mọi hoạt động của cảng biển diễn ra trên môi trường số, trực tuyến, và toàn trình. Một doanh nghiệp cảng sử dụng nền tảng tích hợp đầy đủ các nghiệp vụ quản lý, khai thác cảng, không còn vấn đề sử dụng nhiều phần mềm ứng dụng như trước đây. Việc chuyển đổi số đã đạt được một số kết quả tích cực ban đầu:

Trước đây, khi xuất khẩu 1 Container. Doanh nghiệp cần lên Hãng tàu đăng ký lấy container rỗng, sau đó chạy về Cảng chọn container. Khi đóng hàng xong lại lên hãng tàu booking Tàu, xuống Cảng đóng tiền hạ bãi, thực hiện dịch vụ thủ tục hàng xuất, thủ tục vào sổ tàu, thanh lý hải quan.

Trung bình, một container thông quan qua 12 điểm chạm, trong vòng 5-7 giờ. Sau khi chuyển đổi số, một container thông quan qua 2 điểm chạm (1 trên nền tảng VSL, 1 tại cổng), trong vòng từ 2 – 3 phút. So sánh với Singapore, một quốc gia có trình độ phát triển về cảng biển rất cao, số điểm chạm và thời gian thông quan là tương đương. Với chi phí chỉ bằng khoảng 10 – 20% giải pháp cung cấp bởi các nhà cung cấp nước ngoài.

- Thứ hai, với lợi thế là một nền tảng, đã thực hiện Kết nối 17 Doanh nghiệp cảng, 118 Hãng tàu, 904 Doanh nghiệp vận tải, 28,500 Doanh nghiệp xuất nhập khẩu, Cổng thanh toán Napas, 4 ngân hàng. Ngoài ra, sự đồng hành thiết kế cổng thanh toán của Ngân hàng quân đội xuyên suốt thời gian qua. Đây là nguồn dữ liệu khổng lồ để cải tiến quy trình, nâng cao hiệu quả, thậm chí là xây dựng mô hình kinh doanh mới:

Trong đó, ứng dụng gọi xe, gọi salan được thiết kế tương tự mô hình kinh tế chia sẻ như Grab/Uber. Giúp chủ hàng gọi tìm được chuyến xe phù hợp gần như tức thời (thay cho phải chờ đợi 1-2 ngày), và tài xế nhận được chuyến hàng chiều về.

Dịch vụ container Re-use, giúp chủ hàng có thể sử dụng lại container rỗng, mà không phải trả về Cảng. giảm bớt chi phí nâng hạ, lưu bãi, vận tải.

Về thị phần, hiện nay, Việt Nam có 145 cảng biển. Trừ hệ thống Tổng công ty Tân Cảng sài Gòn phát triển riêng biệt, nền tảng VSL chiếm khoảng 40% sản lượng hàng hóa trên toàn quốc.

3. Bài học kinh nghiệm

Bài toán quốc gia, hướng tới bức tranh lớn của quốc gia

Nền tảng cảng biển số tích hợp toàn bộ cảng biển, hình thành bức tranh tổng thể, toàn diện về cảng biển Việt Nam. Hiện nay đã tích hợp được giải pháp TOS do doanh nghiệp nước ngoài cung cấp. Đây là điều kiện để hình thành cơ sở dữ liệu về cảng biển, có thể được tích hợp, chia sẻ trong cơ quan nhà nước để phục vụ công tác quản lý nhà nước về cảng biển.

Giúp các doanh nghiệp cảng mở rộng hoạt động, ko chỉ giới hạn trong phạm vi quản lý của cảng. Như vậy, mới trực tuyến, toàn trình 100%. Cơ quan nhà nước có công cụ quản lý, có thể theo dõi, giám sát tới từng container hàng từ lúc cập bến, và xuyên suốt quá trình giao nhận tới doanh nghiệp xuất nhập khẩu.

Doanh nghiệp Việt Nam, am hiểu văn hóa Việt Nam, với đội ngũ ở Việt Nam. Đây là lợi thế để nền tảng VSL có thể nhanh chóng phổ cập triển khai tại các cảng biển.

Trong thời gian qua, Nền tảng cảng biển số của SLT đã được các doanh nghiệp cảng đón nhận như một sự thay đổi tích cực, mang lại hiệu quả lớn, nâng cao doanh thu và sản lượng. Năm 2022, Bộ TT&TT đánh giá và tôn vinh VSL là giải pháp chuyển đổi số Việt Nam. Đây là một sự động viên, khích lệ to lớn từ Bộ TT&TT đối với một doanh nghiệp còn non trẻ như SLT. Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Giao thông vận tải cùng với các địa phương thúc đẩy chuyển đổi số cảng biển, phát triển kinh tế số cảng biển tại các địa phương, đóng góp chung vào phát triển kinh tế số quốc gia.

 

 

 

Nội dung sau cùng trong khóa học Kiến thức nền tảng về chuyển đổi số này đó là sự cần thiết phải thiết kế “phanh” trong chuyển đổi số

Chuyển đổi số là phong trào, là xu thế tất yếu nhưng chúng ta phải thực hiện nó với những kiến thức và sự hiểu biết về nó, không thực hiện chuyển đổi số thành tích.

Khi chưa bắt đầu chuyển đổi số, nhận thức về sự cần thiết, phát hiện và lựa chọn đúng bài toán để giải quyết là quan trọng nhất. Khi đã bắt đầu chuyển đổi số, nhận thức về phương hướng, sớm phát hiện ra sự chệch hướng để điều chỉnh là quan trọng nhất. Vì vậy, để dẫn dắt chuyển đổi số, Nhà lãnh đạo cần thiết lập được cho mình hệ thống giám sát và các "ngưỡng" cảnh báo sớm, giống như cái phanh của một chiếc xe, không phải để dừng chiếc xe lại, mà để yên tâm nhấn ga đi nhanh hơn và an toàn hơn.

“Phanh” thứ nhất: “Phanh” về nhận thức

Chuyển đổi số không phải là thêm một nhiệm vụ mới. Mà chuyển đổi số là thêm một một phương thức phát triển mới. Chẳng hạn, họp trực tuyến đến cấp xã trên thiết bị cá nhân là thêm một công cụ để chúng ta có thể họp giải quyết công việc ngay lập tức, giảm bớt thời gian và chi phí, chứ không phải là thêm một cuộc họp. Nếu tiến trình chuyển đổi số làm thêm gánh nặng, thì chúng ta hãy tạm dừng lại để xem xét, vì chắc chắn đã có điều gì đó chưa đúng cần điều chỉnh lại trước khi làm tiếp.

“Phanh” thứ hai: “Phanh” về sự tham gia của các bên

Một mô hình chuyển đổi số giản lược nhất gồm 3 "người": Người đặt ra bài toán, Người phát triển công cụ và Người sử dụng công cụ để giải quyết bài toán. Chuyển đổi số cần sự vào cuộc đồng bộ của cả 3 "người". Nhà lãnh đạo đặt ra bài toán. Đơn vị chuyên trách về CNTT và doanh nghiệp CNTT phát triển công cụ. Toàn bộ bộ máy của cơ quan, tổ chức cùng sử dụng.

“Phanh” thứ ba: “Phanh” về vai trò của người đứng đầu

Không có khái niệm ủy quyền trong chuyển đổi số, người lãnh đạo cao nhất phải là người đi đầu, là nhân tố chính trong hoạt động chuyển đổi số.

“Phanh” thứ tư: “Phanh” về tiếp cận nền tảng

Phải biết so sánh giữa hệ thống thông tin và Nền tảng ở các góc độ:

- Về hạ tầng: đối với HTTT là phần cứng, phần mềm, CSDL. Đối với nền tảng là Cloud, Microservice (vẫn là phần cứng, phần mềm, CSDL nhưng được ảo hóa)

- Về vai trò: đối với HTTT là Chủ quản sở hữu vận hành. Đối với nền tảng là chủ quản hệ thống thông tin trở thành người dùng nền tảng. Chủ quản nền tảng vận hành.

- Về sở hữu: đối với HTTT là Máy móc, phần cứng, dữ liệu. Đối với Nền tảng là dữ liệu.

- Về đầu tư: đối với HTTT là đầu tư một lần. Đối với nền tảng là thuê dịch vụ.

- Về hiệu quả: đối với HTTT là đầu tư lớn nhưng chưa chắc sử dụng hết. Đối với nền tảng là co giãn theo nhu cầu, dùng bao nhiêu trả tiền bấy nhiêu.

- Về bảo đảm ATTT: đối với HTTT là chủ quản bảo đảm ATTT theo quy định. Đối với nền tảng là do chủ quản nền tảng thực hiện, người dùng nền tảng chỉ sử dụng.

 

 

“Phanh” thứ năm: “Phanh” về quản lý kinh tế

•  Đúng bài toán: Mọi nhiệm vụ chi đều yêu cầu phải có thuyết minh rõ ràng để chứng minh hiệu quả mang lại lớn hơn chi phí bỏ ra. Ví dụ, chi 1 đồng thì hiệu quả mang lại phải là 3 đồng, 5 đồng hay 10 đồng.

• Đúng người Người làm có người thẩm định, có người giám sát độc lập ngay từ khi bắt đầu triển khai nhiệm vụ.

• Đúng sản phẩm Xác định đúng yêu cầu chức năng, tính năng kỹ thuật và bảo đảm an toàn, an ninh mạng. Tham khảo công bố của Bộ TT&TT về các sản phẩm, dịch vụ tốt đã được đánh giá, công bố.

• Đúng giá Xác định đúng giá sản phẩm, dịch vụ. Nếu là sản phẩm, dịch vụ đã có trên thị trường thì tham khảo giá trúng thầu của các gói thầu đã thực hiện, ở cả các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp. Nếu là sản phẩm, dịch vụ chưa có trên thị trường thì thực hiện theo hướng dẫn của Bộ TT&TT về xác định giá trị, chủ động tham vấn các cơ quan chức năng của Bộ TT&TT, Bộ Tài chính, Bộ KH&ĐT.

• Đúng quy trình Thực hiện đúng quy trình phê duyệt chủ trương, lập dự toán, đấu thầu, nghiệm thu, đưa vào sử dụng theo quy định của pháp luật. Người làm có người thẩm định, có người giám sát độc lập ngay từ khi bắt đầu triển khai nhiệm vụ.

 


 

 

Nguồn từ thuathienhue.gov.vn
Các tin khác
Xem tin theo ngày  

Chung nhan Tin Nhiem Mang

Thống kê truy cập
Truy cập tổng 5.004
Truy cập hiện tại 10